Bài thơ Tổ quốc nhìn từ biển được nhà thơ, nhà báo Nguyễn Việt Chiến viết trong lần tham dự trại sáng tác do Tạp chí Văn nghệ Quân đội phối hợp với Cục chính trị quân chủng Hải quân tổ chức với đề tài sáng tác về “Biển, đảo và người chiến sĩ hải quân” và được in trong Tạp chí Văn nghệ quân đội số 5-2009.
Trong bài thơ, Nguyễn Việt Chiến đã chọn điểm nhìn “từ biển” để đưa ra những giả định: “Nếu Tổ quốc đang bão giông từ biển”, “ Nếu Tổ quốc hôm nay nhìn từ biển”, “Nếu Tổ quốc nhìn từ bao quần đảo”, “Nếu Tổ quốc nhìn từ bao thương tích”, “Nếu Tổ quốc nhìn từ bao hiểm họa”, “Nếu Tổ quốc neo mình đầu sóng cả”, “Nếu Tổ quốc nhìn từ bao mất mát”. Ở mỗi chiều kích khác nhau, anh gợi mở cho người đọc nhiều suy ngẫm về vấn đề chủ quyền của đất nước, về vai trò của quan trọng của biển đảo đối với một quốc gia và trách nhiệm của một người công dân trong việc giữ gìn đất đai Tổ quốc.
Khẳng định chủ quyền của đất nước, anh gợi nhắc về truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ chia con lên rừng, xuống biển mà làm nên hình hài đất nước. Theo anh “Chúng ta là con dân của đất Việt, ông cha ta từ ngàn năm trước đã lên rừng, đã xuống biển để khai phá, dựng xây non nước này. Và, biển - đảo ấy là một phần gia tài nghèo khó mà ông cha ta tự ngàn xưa đã không tiếc máu xương, công sức để giữ gìn, để truyền đời lại cho cháu con hôm nay.”(*)
Hình tượng hóa Tổ quốc như ngôi nhà có mẹ Âu Cơ, cha Lạc Long Quân và con dân nước Việt, Nguyễn Việt Chiến đã kết nối thời gian, không gian và các sự kiện thành một thể thống nhất.
Bắt đầu bằng cuộc chia tay có một không hai của ngàn năm trước để thương để nhớ “Mẹ lên rừng thương nhớ mãi Trường Sa”, nhà thơ triển khai ý tưởng nghệ thuật thành những khúc đoạn, buộc người đọc phải suy tư, trăn trở. Chúng ta đang sở hữu một vùng biển đảo vô cùng rộng lớn với hàng ngàn hòn đảo lớn nhỏ khác nhau. Nhưng “Biển Tổ quốc chưa một ngày yên ả” thì làm sao mẹ Âu Cơ có thể yên lòng và chúng ta – những con dân nước Việt – làm sao khỏi “trằn trọc nỗi mưa nguồn chớp bể”. Có lí nào chúng ta không xót đau khi “Sóng lớp lớp đè lên thềm lục địa”, phần máu thịt Hoàng Sa, Trường Sa đang “bão giông”; không thương về “Lý Sơn đảo khuất giữa mây mù”, “Cồn cỏ gối đầu lên sóng dữ”, “Hòn Mê bão tố phía âm u”…
Nhìn về quá khứ, đất Tổ quốc chẳng khi nào vắng bóng giặc, chẳng khi nào im tiếng gươm, tiếng súng. Liên miên trận mạc. Con dân nước Việt ngàn đời nay vẫn kiên trì chống giặc ngoại xâm dẫu phải hi sinh xương máu. Qua mỗi trận binh đao, Tổ quốc lại thêm nhiều thương tích, nhiều mất mát: “Bao dáng núi còn mang hình góa phụ - Vọng phu buồn vẫn dỗ trẻ đưa nôi”, “Máu đã đổ ở Trường Sa ngày ấy – Bạn tôi nằm dưới sóng mặn vùi thân”, “Máu xương kia dằng dặc suốt ngàn đời”…
Chúng ta có quyền tự hào về truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước của cha ông nhưng không có quyền quên đi trách nhiệm giữ gìn đất đai Tổ quốc. Cha ông chúng ta có kinh nghiệm đánh giặc trên sông nước “Đã mười lần giặc đến tự biển Đông – Những ngọn sóng hóa Bạch Đằng cảm tử - Lũ Thoát Hoan bạc tóc khiếp trống đồng” nhưng không vì thế mà chúng ta lơ là, mất cảnh giác. Đất nước đang thái bình nhưng nếu nhìn “từ biển”, “từ bao quần đảo”, “từ bao hiểm họa”, chúng ta sẽ thấy Tổ quốc đang “neo mình đầu sóng cả”, “đang bão giông”. Bằng cách nói hình tượng, nhà thơ Nguyễn Việt Chiến đã cho chúng ta thấy những mối hiểm họa khôn lường của “đất nước trên ba ngàn hòn đảo”.
Anh cho rằng: “Đối với những người cầm bút hôm nay, vượt lên trên tất cả các vấn đề thời sự nhạy cảm ấy là tình yêu Tổ quốc. Tình yêu đó được nuôi dưỡng trong tâm hồn mỗi con người Việt Nam qua nhiều thăng trầm, và hình như lại đang được khơi dậy trong những tháng năm này”(*). Ý thức rất rõ trách nhiệm của người cầm bút chân chính, anh muốn người đọc – những con dân nước Việt – khắc ghi “Lời cha dặn phải giữ gìn từng thước đất”. Không những thế, trước khi kết thúc bài thơ, anh còn nhắc đến sắc chỉ vừa được người dân huyện đảo Lí Sơn tìm thấy của vua triều Nguyễn năm 1835 - cử dân binh ra canh đảo Hoàng Sa - để cho chúng ta nhận thức được ý nghĩa sống còn của biển đảo đối với đất nước và nhiệm vụ thiêng liêng trong việc bảo vệ vùng lãnh thổ mà cha ông ta để lại.
Viết đến đây tự nhiên tôi nhớ đến những câu thơ trong trường ca Những người đi tới biển của Thanh Thảo:
Tổ quốc kiên trì nhoài ra phía biển
ôm những quần đảo trong vòng tay thương mến
mắt dõi nhìn hút cánh hải âu bay
Không biết đã có sự cộng hưởng tri âm nào mà nhà thơ Nguyễn Việt Chiến cũng kết thúc bài thơ của mình bằng đôi câu thơ ấn tượng:
Hồn dân tộc ngàn năm không chịu khuất
Dáng con tàu vẫn hướng mãi ra khơi.
Vâng! Đã ngàn năm rồi, “Tổ quốc kiên trì nhoài ra phía biển”, “Dáng con tàu vẫn hướng mãi ra khơi” – nơi có đất đai và biển trời Tổ quốc. Và để giữ nguyên vẹn hình hài đất nước, hồn dân tộc sẽ không bao giờ chịu khuất.