Hỏi đáp tổng hợp Gửi câu hỏi Gửi khảo sát
IQ là gì, EQ là gì? Chỉ số thông minh IQ và chỉ số cảm xúc EQ
NoName.523 | |
05/05/2016 10:48:27 |
20.302 lượt xem
Trả lời / Bình luận (1)
NoName.556 | |
05/05/2016 10:48:41 |
IQ là viết tắt của Intelligence Quotient, có nghĩa là chỉ số thông minh, là chỉ số đánh giá sự thông minh của một người, người có chỉ số IQ cao có khả năng thao tác, xử lý và phân tích thông tin ở mức độ chuyên sâu và tốc độ nhanh hơn người bình thường. IQ có thể thay đổi theo thời gian, cũng không quyết định khả năng thành công hay thất bại của mỗi người. Chỉ số IQ trung bình của con người là 100. Những người có chỉ số IQ thấp hơn hoặc cao hơn nhiều so với chỉ số trung bình được coi là những trường hợp đặc biệt, ngoại lệ.
EQ là viết tắt của Emotional Quotient có nghĩa là chỉ số cảm xúc, là một tính trạng số lượng được dùng để đo lường trí tưởng tượng, sáng tạo của một người.
Chỉ số thông minh IQ (intelligence quotient)
Một số điều cơ bản
1. Ý nghĩa
Chỉ số thông minh (IQ) là khái niệm được các nhà tâm lý học sử dụng để gọi trí thông minh lỏng và trí thông minh kết tinh. Hay nói một cách đơn giản, các bài kiểm tra IQ là phương pháp để đánh giá khả năng nhận thức và giải quyết vấn đề của con người.
Có nhiều hình thức thực hiện các bài kiểm tra IQ khác nhau, tuy nhiên hầu hết trong số đó đều hướng tới mục tiêu phân tích khả năng ngôn ngữ, toán học, xử lý hình ảnh cũng như trí nhớ và tốc độ xử lý thông tin của mỗi người. Kết quả đánh giá các khả năng này cùng với một số bài kiểm tra phụ sẽ được kết hợp và tổng kết thành chỉ số IQ.
Lisa Van Gemert, một chuyên gia phân tích khả năng con người, cho biết những người có chỉ số IQ cao thường có khả năng thao tác, xử lý và phân tích thông tin ở mức độ chuyên sâu hơn và tốc độ nhanh hơn so với những người khác. Chỉ số IQ trung bình của con người là 100. Những người có chỉ số IQ thấp hơn hoặc cao hơn nhiều so với chỉ số trung bình được coi là những trường hợp đặc biệt, ngoại lệ.
2. Chỉ số IQ không nói lên tất cả
Chỉ số thông minh IQ không đánh giá trí thông minh thực tế của con người hay đánh giá khả năng thực hiện các công việc trong cuộc sống. Theo Richard Nisbett, một giáo sư tâm lý tại Đại học Michigan, Mỹ, IQ không đánh giá được tính sáng tạo hay sự tò mò của con người.
Chỉ số IQ cũng không thể được áp dụng như một tiêu chuẩn để các giáo viên và phụ huynh đánh giá cảm xúc của những đứa trẻ. Theo Van Gemert, sẽ là một sai lầm nếu như nhìn nhận rằng những đứa trẻ có chỉ số IQ cao chẳng có điều gì khác tốt hơn ngoài một bộ não siêu việt. Chỉ số IQ chỉ là một phần trong những đặc điểm hình thành con người. Nó cũng giống như đôi mắt xanh, đôi chân lớn hay các đặc điểm khác ở tùy từng cá nhân.
3. Chỉ số IQ có thể thay đổi theo thời gian
Có rất nhiều yếu tố khiến chỉ số IQ của con người thay đổi theo thời gian như tình trạng căng thẳng hay vấn đề dinh dưỡng. Nghiên cứu của giáo sư Nisbett cho thấy những đứa trẻ sinh sống ở điều kiện kinh tế xã hội thấp nhưng được nhận nuôi và sinh sống trong các gia đình trung lưu sẽ có thể tăng chỉ số IQ thêm 15-20 điểm.
Theo Nisbett, tính di truyền không tác động nhiều đến chỉ số IQ như nhiều người vẫn nghĩ. Các yếu tố môi trường mới có khả năng tác động mạnh đến chỉ số IQ của con người.
Trong một nghiên cứu, các nhà khoa học đã kiểm tra chỉ số thông minh của 33 người ở độ tuổi thiếu niên và kiểm tra lặp lại 4 năm sau đó. Trong một khoảng thời gian ngắn, chỉ số IQ của một số người đã thay đổi hơn 20 điểm.
Những đứa trẻ 3, 4 tuổi có thể được coi là thiên tài nếu chúng đọc sách dành cho học sinh lớn tuổi hay nói thông thạo một thứ tiếng khác. Tuy nhiên, không ai có thể dám chắc trí thông minh từ thuở nhỏ sẽ giúp chúng vượt trội hơn so với những đứa trẻ cùng lứa tuổi trong những giai đoạn phát triển khác nhau của cuộc đời.
4. Thế hệ sau thông minh hơn các thế hệ trước
Kể từ khi chỉ số IQ được tiêu chuẩn hóa lần đầu tiên vào những năm 1990, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy mức tăng ổn định về chỉ số IQ trong mỗi thế hệ sau. Một đứa trẻ 10 tuổi ngày nay sẽ có chỉ số IQ cao hơn một đứa trẻ 10 tuổi sống ở năm 1954.
Điều này không có nghĩa rằng đứa trẻ có IQ cao hơn thì có bộ não lớn hơn những thế hệ trước mà chỉ đơn giản là chúng đã cải thiện hơn trong các khả năng tư duy, phân tích và giải quyết vấn đề và sử dụng các khả năng đó trong nhiều trường hợp giả định khác nhau.
Sự thay đổi về phương pháp giáo dục, công việc của con người ở mỗi giai đoạn cũng là những nhân tố buộc mỗi người phải vận động tư duy để giải những bài toán khó hay và hình thành các phương pháp giải quyết vấn đề phức tạp.
Sức khỏe cũng là yếu tố có mức độ ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển chỉ số IQ. Tỷ lệ trẻ em được tiêm chủng sớm có thể dự báo được chỉ số IQ trung bình của mỗi quốc gia. Số lượng các bệnh truyền nhiễm trên thế giới giảm sẽ góp phần làm tăng chỉ số IQ ở các thế hệ tiếp theo trên phạm vi tổng thể.
5. Chỉ số IQ không quyết định thành công hay thất bại
Theo Van Gemert, chỉ số IQ thấp hay cao không phải là yếu tố xác định khả năng thất bại hay thành công của mỗi người. Những thói quen tốt, sự kiên trì và thái độ làm việc nghiêm túc cũng quan trọng không kém trí thông minh bẩm sinh. Thậm chí, nếu không tự phát triển các phẩm chất và năng lực bản thân, thì trí thông minh vốn có của mỗi người sẽ trở nên lãng phí.
Trên thực tế, rất nhiều học sinh và sinh viên có chỉ số IQ cao nhưng không thể thành công bởi họ thiếu sự tò mò, tính sáng tạo và khả năng để hòa hợp cùng những người khác.
Thông tin chi tiết về chỉ số thông minh IQ (intelligence quotient)
Chỉ số thông minh IQ là một khái niệm được nhà khoa học người Anh Francis Galton đưa ra trong cuốn sách Hereditary Genius xuất bản vào cuối thế kỷ 19. Sau đó, nó được học trò của ông là J.Cattell và nhà tâm lý học người Pháp Alfred Binet phát triển bằng việc thảo ra những bài trắc nghiệm để kiểm tra năng lực trí tuệ của trẻ khi đi học. Binet nhận thấy rằng có mối liên hệ giữa khả năng học của một học sinh với kết quả bài trắc nghiệm của ông. Sau đó không lâu, nhà tâm lý học người Mỹ Giáo sư Lewis Terman (Giảng viên trường đại học Standford) đã phát triển bài trắc nghiệm gồm những câu phức tạp hơn để dùng cho người trưởng thành và đặt tên là bài trắc nghiệm chỉ số thông minh Stanford-Binet; nó nhanh chóng trở nên thông dụng trên khắp nước Mỹ, bùng phát mạnh vào năm 1917 khi nước Mỹ bước vào chiến tranh thế giới thứ nhất.
Sự phân bố IQ trên người. Chỉ số IQ 100 tương ứng với mức thông minh trung bình của người.
Ban đầu IQ được tính là thương số giữa tuổi trí tuệ và tuổi thực tế nhân với 100, tuy nhiên cách tích này nhanh chóng bộc lộ những khuyết điểm nên được phát triển thành các cách tính phổ biến theo độ lệch chuẩn 15, 16, 24.
Chỉ số IQ thường được cho là có liên quan đến sự thành công trong học tập, trong công việc, trong Xã hội, những nghiên cứu gần đây cho thấy có sự liên quan giữa IQ và sức khỏe, tuổi thọ (những người thông minh thường có nhiều kiến thức hơn trong việc chăm sóc bản thân) và cả số lượng từ mà người đó sử dụng.
Trong thế kỉ 20, chỉ số IQ trung bình của con người tăng lên một cách rất chậm: đó được gọi là hiệu ứng Flynn. Nhưng chúng ta vẫn chưa thể khẳng định chắc chắn những sự thay đổi đó thể hiện chính xác sự thông minh dần thêm của con người. Trung bình chỉ số IQ trong một đời người hầu như không tăng hay giảm. Tuy nhiên vẫn có một ít người trải qua những sự thay đổi rất lớn. Ví dụ như trong một số tài liệu, một số chứng bệnh ảnh hưởng học tập có thể ảnh hưởng gây giảm chỉ số IQ rất lớn (Shaywitz, 1995).
Di truyền và môi trường tác động lên trí thông minh
Vai trò của di truyền và môi trường tác động lên trí thông minh là một đề tài nghiên cứu từ rất lâu. Khả năng thừa kế của một gene lên thế hệ sau được biểu diễn bằng một số trong khoảng từ 0 đến 1, gọi là hệ số di truyền. Ta có thể hiểu một cách khác là hệ số di truyền là phần trăm khả năng di truyền cho đời sau của một gene. Nghiên cứu ở những cặp sinh đôi và những gia đình có nhận con nuôi là những nơi thường được nghiên cứu nhiều nhất. Cho đến gần đây hệ số di truyền hầu hết chỉ được nghiên cứu ở trẻ em và người ta cho rằng hệ số di truyền trung bình là 0,5. Điều này cho thấy một nửa số trẻ trong nghiên cứu có gene đã biến dị. Phần còn lại được giải thích rằng do tính toán sai hay do yếu tố môi trường. Con số 0,5 cho thấy trí thông minh một phần là do thừa kế từ cha mẹ. Nghiên cứu ở người lớn tuy vẫn chỉ ở những mức rất sơ khai nhưng cũng có những kết quả rất thú vị: hệ số di truyền có thể lên đến 0,8. Hiệp hội tâm lý học Hoa Kì vào năm 1995 trong công trình "Intelligence: Knowns and Unknowns" (Trí thông minh: những điều đã biết và chưa biết) kết luận rằng hệ số di truyền là "khoảng 0,75".
Môi trường
Yếu tố môi trường đóng vai trò rất lớn trong nhiệm vụ xác định trí thông minh trong một số trường hợp. Một chế độ dinh dưỡng hợp lý trong lúc nhỏ được cho là rất quan trọng; sự dinh dưỡng kém có thể làm suy giảm trí thông minh. Một số nghiên cứu khác về yếu tố môi trường còn cho rằng thai phụ trước khi sinh hay cho con bú nếu tiếp xúc với những loại độc tố hay thiếu các vitamin và muối khoáng quan trọng có thể ảnh hưởng đến IQ của đứa bé. Trong xã hội đã phát triển, môi trường trong gia đình có thể tạo ra 25% sự khác biệt. Tuy nhiên, khi lớn lên, điều này hầu như biến mất. Do đó, trong một xã hội đang phát triển càng hiện đại hơn, trí thông minh của con người càng di truyền.
Theo như một số nguồn khác, đối với hầu hết những tính cách khác nhau, trái ngược với những điều được mong đợi, những ảnh hưởng từ môi trường lên những trẻ em được nhận nuôi khác hẳn so với những trẻ em được nuôi bởi chính cha mẹ của chúng. Nói một cách khác, người ta thấy con nuôi có hệ số di truyền trí thông minh vào khoảng 0,32. Tuy vậy, những ảnh hưởng trên hoàn toàn bị xóa bỏ khi đến tuổi trưởng thành.
Những ảnh hưởng của môi trường lên gene cũng được nghiên cứu. Điều này cũng được coi là một yếu tố môi trường, nhưng thay vì xác phụ thuộc của IQ vào gene, người ta nghiên cứu sự phụ thuộc giữa gene vào môi trường. Một trong số những nghiên cứu trên cho rằng 40% sự khác nhau trong một gia đình là do sự biến dị của gene.
Phát triển
Có nhiều người tin rằng sự ảnh hưởng của gene lên chỉ số IQ càng ngày càng kém quan trọng trong cuộc sống khi con người già đi và học hỏi thêm càng nhiều kinh nghiệm. Thật ngạc nhiên là điều ngược lại lại xảy ra. Đối với trẻ em, hệ số di truyền là 0,2 (20%), một thiếu niên là 0,4 và có thể lên đến 0.8 đối với người lớn.
Những ảnh hưởng của gia đình cũng có vẻ biến mất khi lớn lên. Những trẻ em nuôi sau khi lớn lên có hệ số di truyền hầu như không hề liên quan (gần 0), trong khi những anh chị em cùng cha mẹ thì con số đó là 0,6. Nghiên cứu về những cặp sinh đôi cùng trứng cho thấy con số đó sẽ được nâng lên đến 0,86.
Sự chậm phát triển trí não
Khoảng 75-80% sự chậm phát triển trí não là do di truyền, và 20-25% còn lại là do những nguyên nhân bên trong cơ thể như sự bất thường ở các nhiễm sắc thể hay chấn thương ở não. Sự chậm phát triển trí tuệ từ nhẹ đến vừa có thể có nguyên nhân là do sự rối loạn của một gene cho đến nhiều nhiễm sắc thể bất thường, có thể bao gồm hiện tượng mất đoạn nhiễm sắc thể. Theo như nhiên cứu trên những cặp sinh đôi, sự kém phát triển trí tuệ từ vừa đến nặng là không do yếu tố di truyền, nhưng dạng nhẹ của bệnh lại là do di truyền. Đó cũng là lý do họ hàng của những người kém phát triển trí tuệ nặng hầu hết đều bình thường còn trong những gia đình có người kém phát triển trí tuệ nhẹ thì có chỉ số IQ thấp hơn hẳn so với mức trung bình.
Bảng chỉ số IQ
- Kém phát triển trí tuệ dạng nhẹ: có IQ từ 50-55 đến 70, trẻ em như thế cần được giúp đỡ nhẹ nhàng.
- Kém phát triển trí tuệ dạng trung bình: có IQ từ 35-40 đến 50-55, trẻ em cần được giúp đỡ nhiều và theo dõi.
- Kém phát triển trí tuệ dạng nặng: có IQ từ 20-25 đến 35-40, trẻ chỉ có thể được dạy các kĩ năng cơ bản trong cuộc sống, cần được theo dõi thường xuyên.
- Kém phát triển trí tuệ dạng rất nặng: có IQ dưới 20-25, thường bị gây ra bởi những vấn đề về hệ thần kinh, rất cần chăm sóc thường xuyên.
Tỉ lệ mắc chứng kém phát triển trí tuệ ở nam cao hơn ở nữ, ở người da đen cao hơn người khác, theo như một nghiên cứu năm 1991 của Trung tâm Điều khiển và Phòng chống Dịch bệnh (CDC).
Đối với chủng tộc, tỉ lệ chung là 1,66% cho người da đen và 0.68% cho người da trắng. Đối với nam, da đen thì có tỉ lệ cao nhất: gấp 1,7 lần nữ, da đen; 2,4 lần so với nam, da trắng và 3,1 lần so với nữ, da trắng.
Những người có chỉ số IQ dưới 70 ở Hoa Kì sẽ được miễn tội tử hình từ năm 2002.
IQ và sự liên quan đến giáo dục và thu nhập
Nghiên cứu của Tambs cùng những cộng sự (1989) cho thấy rằng bằng cấp đạt được, nghề nghiệp cũng như IQ là di truyền được; và hơn nữa cho thấy rằng gene ảnh hưởng rất lớn lên thành công trong học tập, khoảng 25% nghề nghiệp và gần 50% biến dị về gene lên IQ. Rowe cùng những cộng sự trong công trình nghiên cứu năm 1987 cho rằng sự không đồng đều trong thu nhập và giáo dục đến hầu hết từ gene, và các yếu tố môi trường chỉ có vai trò rất phụ.
Sự quay lại
Sự di truyền của chỉ số IQ cho thấy khả năng IQ của một đứa trẻ bị ảnh hưởng từ IQ của cha mẹ. Bởi vì chỉ số IQ luôn nhỏ hơn 1 nên chỉ số IQ của đứa trẻ sẽ có xu hướng quay lại về chỉ số IQ chuẩn của dân số chung. Có thể nói, một cặp bố mẹ có chỉ số thông minh cao có nhiều khả năng có những đứa con kém thông minh hơn họ. Trong khi đó, những cặp bố mẹ có chỉ số IQ có chỉ số thông minh thấp lại có xu hướng có những đứa con thông minh hơn. Hiệu ứng trên có thể được biểu diễn bởi công thức:
Trong đó:
chỉ số IQ dự đoán của đứa bé
chỉ số IQ trung bình của xã hội
hệ số di truyền của chỉ số IQ
và : chỉ số thông minh của mẹ và bố đứa bé
Vì vậy, nếu hệ số di truyền là 50%, một cặp có IQ trung bình là 120 và sống trong xã hội có IQ trung bình là 100 thì con của họ có nhiều khả năng có IQ là 110.
IQ và bộ não
Kích cỡ bộ não
Những nghiên cứu hiện đại sử dụng kĩ thuật MRI cho thấy kích cỡ bộ não có liên quan đến IQ với một hệ số là khoảng 0,4. Một nghiên cứu trên những cặp sinh đôi do Thompson cùng những cộng sự xuất bản vào năm 2001 cho thấy rằng chất xám có liên quan đến hệ số g và cũng có hệ số di truyền rất cao (một nghiên cứu gần đây cho thấy con số đó là 0,85).
Những vùng não tương ứng với IQ
Nhiền nguồn thông tin khác nhau cùng đồng ý ở một điểm là não trước đóng một vai trò quyết định trong việc hình thành những "dòng suy nghĩ". Những bệnh nhân có những vấn đề về não trước có kết quả IQ và chất trắng cũng đã được cho là có liên quan mật thiết với trí thông minh tổng quát. Tuy nhiên, những hình chụp mới về bộ não cho thấy điều đó chỉ giới hạn ở vùng hai bên vỏ não trước. Ducan và các đồng sự khi sử dụng phương pháp chụp PET thì xác định phần não dùng để giải quyết các vấn đề liên quan rất lớn đến trí thông minh nằm ở vùng hai bên vỏ não trước. Gần đây hơn, Gray và các cộng sự (2003) đã dùng phương pháp fMRI để chứng minh ở những người có trí thông minh cao thì vùng này có thêm khả năng chống lại những sự mất tập trung. Gray và Thompson (2004) có một bài viết về điều này.
Cấu trúc bộ não và IQ
Một nghiên cứu bao gồm 307 trẻ em từ 6 đến 19 tuổi bằng cách đo kích cỡ từng phần của bộ não bằng phương pháp MRI và đo các khả năng từ vựng và suy luận đã được thực hiện (Shaw, 2006). Nghiên cứu cho thấy có một sự liên quan nào đó giữa IQ và cấu trúc của vỏ não – những người có trí thông minh cao thường có vỏ não mỏng khi nhỏ và dày dần thêm khi lớn lên.
Hiệu ứng Flynn
Trên toàn thế giới, chỉ số IQ sẽ tăng một cách chậm, còn được biết đến với tên gọi hiệu ứng Flynn (1999). Hiệu ứng Flynn đã được quan sát từ rất lâu nhưng rất khó để giải thích. Tuy nhiên, những bài kiểm tra trí thông minh luôn được điều chỉnh lại để điểm trung bình luôn là 100, ví dụ WISC-R (1974), WISC-III (1991) và WISC-IV (2003). Vì vậy, có thể nói rất khó so sánh chỉ số IQ với nhiều năm trước.
Sự liên quan IQ
Chủng tộc và trí thông minh
Trong khi chỉ số IQ của một cá thể trong những xã hội được phân bố trên cùng một thang IQ, nhưng những nhóm người khác nhau sẽ có những thang IQ có vị trí khác nhau. Trong khi người Do Thái và Đông Á có khu vực phân bố thang IQ cao hơn người châu Âu, trong khi những người Latin và ở vùng hạ Sahara lại có khu vực phân bố thang IQ thấp hơn. Rất nhiều những nghiên cứu đang được tiến hành nhằm tìm hiểu nguyên nhân của sự phân bố IQ như thế, lý do của việc đó và độ chính xác của những bài kiểm tra IQ. Một số nhà khoa học cho rằng đó là do sự khác nhau trong những điều kiện kinh tế xã hội nhưng giả thiết trên vẫn chưa được chấp nhận hoàn toàn.
Sự tìm hiểu về những vấn đề trên gây rất nhiều tranh cãi do tính chất nhạy cảm của nó.
Chỉ số IQ của các nhóm người khác nhau trên thế giới vào năm 1981. Chú thích: người châu Á: xanh dương; châu Âu: cam, Tây Ban Nha: xanh lá cây; châu Phi: vàng
Giới và trí thông minh
Theo Jackson và Rushton, một cuộc khảo sát đầu thế kỷ 20 cho thấy giới không đóng vai trò về trí thông minh. Trước đó thì Cyril Burt và Lewis Terman cũng không tìm thấy sự khác biệt về trí thông minh giữa hai giới. Năm 1995, Hedges và Nowell chỉ ra những sự khác biệt không có ý nghĩa về mặt thống kê về chỉ số IQ trung bình giữa nam và nữ sử dụng các số liệu trong các nghiên cứu phổ biến xuất bản thời đó.
Một nghiên cứu năm 1995 bởi Hiệp hội Tâm lý Hoa Kỳ cũng không chỉ ra được sự khác biệt về IQ giữa hai giới. Những nghiên cứu thực hiện giữa thập niên 1990 chỉ ra rằng có sự khác biệt nhỏ giữa chỉ số IQ của nam và nữ. Một số liệu phân tích từ 2,404 người của "California Verbal Learning Test" kết luận rằng "Khi các biến trung gian được kiểm soát, những sự khác biệt về giới có xu hướng biến mất trong các bài test có lợi thế cho nam và có xu hướng phóng đại trong các bài test có lợi thế cho nữ"."
Một nghiên cứu của Richard Lynn năm 1999 trong đó ông phân tích số liệu từ một số bài test được xuất bản trước đó và phát hiện ra rằng chỉ số IQ trung bình của nam giới cao hơn của nữ giới khoảng 3-4 điểm IQ. Các phân tích quy mô lớn của Lynn thực hiện năm 2004 khảo sát sự khác biệt giới cũng chỉ ra nam giới có chỉ số IQ trung bình cao hơn nữ là 5.0 điểm IQ. Trong một nghiên cứu khác bởi Rushton phát hiện nam giới ở độ tuổi 17 - 18 tuổi có chỉ số IQ trung bình cao hơn 3.63 điểm so với nữ. Một nghiên cứu năm 2009 đo được khoảng cách là 3-5 điểm IQ cao hơn nghiêng về nam giới.
Tuy nhiên gần đây, một số các nghiên cứu cho rằng những người đồng tính hay song tính có chỉ số IQ cao hơn những người khác.
Tôn giáo và IQ
Một số nghiên cứu đã được tiến hành nhằm tìm hiểu mối liên hệ giữa trí thông minh (được đo bằng trình độ học vấn, điểm số và một số yếu tố khác) và tín ngưỡng, và đã rút ra được rằng đa số những người không có bất cứ tín ngưỡng nào thường có chỉ số IQ cao hơn những người khác.
Sức khỏe và IQ
Một người có trí thông minh cao thường ít bị bệnh tật nặng hơn và sống lâu hơn. Điều đó có thể là bởi vì họ có khả năng né tránh những chấn thương tốt hơn và chăm sóc sức khỏe của mình tốt hơn và mặt khác, họ thường có đời sống kinh tế khá giả hơn. Nó cũng giúp chống lại trầm cảm, tuyệt vọng.
Nghiên cứu ở Scotland cho thấy những người có IQ thấp hơn trung bình 15 điểm có cơ hội mừng sinh nhật thứ 76 của mình thấp hơn 1/5 so với trung bình. Những người có IQ nhỏ hơn 30 điểm thì tỉ lệ đó giảm 37%.
Sự phát triển kinh tế và IQ
Một số cuốn sách gây tranh cãi của tác giả Dr. Richard Lynn, Professor Emeritus về tâm lý học tại Đại học Ulster, Bắc Ireland, và Dr. Tatu Vanhanen, Professor Emeritus về khoa học chính trị tại Đại học Tampere, Tampere, Phần Lan IQ and the Wealth of Nations (2002) (IQ và sự thịnh vượng của quốc gia) và IQ and Global Inequality (2006) cho rằng sự giàu có của một quốc gia một phần lớn có thể giải thích bằng cách nhìn vào chỉ số IQ trung bình của nước đó. Luận điểm trên đã và đang được ủng hộ nhưng cũng có nhiều chê bai. Thông tin đó đang được đặt câu hỏi để nghiên cứu thêm.
Sự hiệu quả thực tế
Bằng chứng về hiệu quả thực tế của chỉ số thông minh được kiểm chứng bằng cách kiểm soát độ liên quan giữa IQ và thực tế cuộc sống.
Những điều kiện kinh tế và xã hội liên quan đến IQ
Đặc điểm về kinh tế và xã hội của IQ
Nghiên cứu cho rằng trí thông minh tổng quát đóng một vai trò rất quan trọng trong cuộc sống. Bên cạnh sự thành công trong trường học, IQ có một vai trò hết sức quan trọng hiệu quả làm việc, thăng tiến, địa vị xã hội và cả tỉ lệ phạm tội, nghèo khó, thất nghiệp, có con ngoài giá thú,... Nghiên cứu gần đây cũng đưa ra những mối liên hệ giữa trí thông minh và sức khỏe, sống thọ, số lượng từ vựng được người đó sử dụng. Mối liên hệ giữa hệ số g và cuộc sống khá rõ ràng trong khi IQ và hạnh phúc thì hầu như không. IQ và hệ số g liên quan rất nhiều với nhau trong trường học, nhưng ít hơn trong nghề nghiệp, trung bình trong thu nhập và có một phần nhỏ đến tình trạng phạm tội.
Trí thông minh tổng quát chính là một tiên đoán gần đúng nhất cho khả năng làm việc của con người. Độ liên quan thể hiện mức độ giống nhau giữa những gì mà họ thể hiện trong bài kiểm tra và trong thực tế (được đo bằng nhiều tiêu chí, trong đó có đánh giá của thủ trưởng, thăng thưởng,...) là một con số từ -1,0 (sai hoàn toàn) đến 1,0 (đúng hoàn toàn). Người ta nhận thấy rằng độ liên quan với những việc chưa từng làm là 0,2 trong khi những việc đã có kinh nghiệm là 0,8.
Một cuộc phân tích lớn (Hunter and Hunter, 1984) trên 32,124 công nhân trên phương diện thông minh tổng quát cho thấy rằng độ liên quan của những người mới vào làm là 0,54, thử việc 0,44, có kinh nghiệm 0,18, phỏng vấn 0,14, tuổi tác -0,01, đang được huấn luyện 0,10. Một bài kiểm tra được thiết kế tốt có thể cho phép các công ty lựa chọn những người có IQ cao. Đó cũng là lý do sau khi xem xét tất cả các ứng viên, người ta thường có phỏng vấn (độ liên quan 0,14) hơn lựa chọn ngẫu nhiên (độ liên quan 0,00).
Tuy nhiên, có những hàng rào luật pháp như quyền con người, như trong năm 1971, tòa án tối cao Hoa Kì sau vụ án Griggs và công ty năng lượng Duke đã cấm hoàn toàn việc các công ty Hoa Kì dùng những bài kiểm tra thông minh để lựa chọn nhân viên khi kết quả của bài kiểm tra có ảnh hưởng quyết định đến việc người đó có được nhận vào làm hay không. Tuy nhiên, Microsoft rất nổi tiếng trong việc sử dụng những bài kiểm tra trên một cách bất hợp pháp bằng cách kết hợp nó với quá trình phỏng vấn, và đôi khi họ đặt vấn đề thông minh cao hơn cả kinh nghiệm.
Những nhà khoa học cũng đã lên tiếng "trong kinh tế, sự đo lường trí thông minh đồng nghĩa với sự suy giảm những giá trị đạo đức"(Detterman and Daniel, 1989, xem thêm ở.
Tuy nhiên, một số nghiên cứu về IQ tiếp tục tìm ra những lợi ích của sự thông minh ở một mức độ cao. Khả năng làm việc là một ví dụ, tăng dần theo IQ (Coward và Sackett, 1990). Trong cuộc phân tích hàng trăm đứa trẻ, người ta thấy rằng IQ có một hiệu quả rất lớn lên thu nhập bình quân của gia đình (Murray, 1998).
Một số những nhà nghiên cứu khác đặt một câu hỏi liệu IQ có là nguyên nhân của sự giàu có và sự không đồng đều về kinh tế trong một quốc gia hay không? Câu trả lời là dưới một phần sáu thu nhập bị ảnh hưởng bởi trí thông minh. Trong một nghiên cứu gần đây vào năm 2002, người ta còn tìm thấy rằng chủng tộc, của cải, học vấn mới có những vai trò chủ chốt trong việc quyết định tình trạng kinh tế trong tương lai còn IQ là một yếu tố nhỏ và sự di truyền trí thông minh còn đóng một vai trò còn nhỏ hơn thế. Nhiều người xem IQ là một biện pháp tình thế của chính phủ các nước nhằm không chấm dứt tình trạng nghèo khổ. Một số khác cho IQ là nguyên nhân của xã hội phong kiến, đối xử bất bình đẳng với phụ nữ. Cũng có ý kiến cho rằng những người có trí thông minh cao thường cho rằng trí thông minh rất quan trọng khiến nhiều người bực mình trong cách cư xử của họ.
Những chỉ trích xung quanh vấn đề IQ
Trong tác phẩm The Mismeasure of Man, giáo sư Stephen Jay Gould cho rằng chỉ số IQ chỉ là một cách phân biệt chủng tộc cao cấp của những nhà khoa học.
Arthur Jensen, giáo sư khoa tâm lý giáo dục, Đại học California tại Berkeley hưởng ứng ý kiến của Gould và có một bài báo mang tên The Debunking of Scientific Fossils and Straw Persons (Vạch trần những luận điểm khoa học cũ kĩ của những người rơm).
Hiệp hội của những người có IQ cao (High IQ societies)
Top 5% (1 trên 20; IQ 124 sd15, IQ 126 sd16, IQ 139 sd24): International High IQ Society
Top 2% (1 trên 50; IQ 130 sd15, IQ 132 sd16, IQ 148 sd24): Encefálica Society, High Potentials Society, Mensa International, Mysterium Society
Top 1% (1 trên 100; IQ 135 sd15, IQ 137 sd16, IQ 156 sd24): Intertel, Top One Percent Society
Top 0,7% (1 trên 147; IQ 137 sd15): Sunesis Society(Defunct)
Top 0,5% (1 trên 200; IQ 139 sd15, IQ 141 sd16, IQ 162 sd24): Colloquy (Society), Poetic Genius Society
Top 0,37% (1 trên 270; IQ 140 sd15, IQ 142 sd16, IQ 163 sd24): Infinity International Society, HispanIQ International Society
Top 0,3% (3 trên 1 nghìn; IQ 141 sd15, IQ 144 sd16, IQ 166 sd24): Cerebrals Society
Top 0,2% (1 trên 500; IQ 143 sd15, IQ 146 sd16, IQ 169 sd24): exactiq high IQ society
Top 0,13% (13 trên 10.000; IQ 145 sd15, IQ 148 sd16, IQ 172 sd24): CIVIQ Society
Top 0,1% (1 trên 1 nghìn; IQ 146 sd15, IQ 149 sd16, IQ 174 sd24): Glia Society, International High IQ Society Milenija, International Society for Philosophical Enquiry, Iquadrivium Society, One-in-a-Thousand Society, Triple Nine Society
Top 0,07% (1 trên 1400, IQ 148 sd15, IQ 151 sd16, IQ 177 sd24): ISI-society
Top 0,003% (3 trên 100 nghìn; IQ 160 sd15, IQ 164 sd16, IQ 196 sd24): Homo Universalis high IQ society, Tetra Society
Top 0,001% (1 trên 100 nghìn; IQ 164 sd 15, IQ 168 sd 16, IQ 202 sd24): eximia high IQ society, The Ultranet
Top 0,0001% (1 trên 1 triệu; IQ 172 sd15, IQ 176 sd16, IQ 214 sd24): Mega Society, GenerIQ Society
Top 0,0000001% (1 trên 1 tỷ, IQ 190 sd15, IQ 196 sd16, IQ 244 sd24): Nano Society.
EQ là viết tắt của Emotional Quotient có nghĩa là chỉ số cảm xúc, là một tính trạng số lượng được dùng để đo lường trí tưởng tượng, sáng tạo của một người.
Chỉ số thông minh IQ (intelligence quotient)
Một số điều cơ bản
1. Ý nghĩa
Chỉ số thông minh (IQ) là khái niệm được các nhà tâm lý học sử dụng để gọi trí thông minh lỏng và trí thông minh kết tinh. Hay nói một cách đơn giản, các bài kiểm tra IQ là phương pháp để đánh giá khả năng nhận thức và giải quyết vấn đề của con người.
Có nhiều hình thức thực hiện các bài kiểm tra IQ khác nhau, tuy nhiên hầu hết trong số đó đều hướng tới mục tiêu phân tích khả năng ngôn ngữ, toán học, xử lý hình ảnh cũng như trí nhớ và tốc độ xử lý thông tin của mỗi người. Kết quả đánh giá các khả năng này cùng với một số bài kiểm tra phụ sẽ được kết hợp và tổng kết thành chỉ số IQ.
Lisa Van Gemert, một chuyên gia phân tích khả năng con người, cho biết những người có chỉ số IQ cao thường có khả năng thao tác, xử lý và phân tích thông tin ở mức độ chuyên sâu hơn và tốc độ nhanh hơn so với những người khác. Chỉ số IQ trung bình của con người là 100. Những người có chỉ số IQ thấp hơn hoặc cao hơn nhiều so với chỉ số trung bình được coi là những trường hợp đặc biệt, ngoại lệ.
2. Chỉ số IQ không nói lên tất cả
Chỉ số thông minh IQ không đánh giá trí thông minh thực tế của con người hay đánh giá khả năng thực hiện các công việc trong cuộc sống. Theo Richard Nisbett, một giáo sư tâm lý tại Đại học Michigan, Mỹ, IQ không đánh giá được tính sáng tạo hay sự tò mò của con người.
Chỉ số IQ cũng không thể được áp dụng như một tiêu chuẩn để các giáo viên và phụ huynh đánh giá cảm xúc của những đứa trẻ. Theo Van Gemert, sẽ là một sai lầm nếu như nhìn nhận rằng những đứa trẻ có chỉ số IQ cao chẳng có điều gì khác tốt hơn ngoài một bộ não siêu việt. Chỉ số IQ chỉ là một phần trong những đặc điểm hình thành con người. Nó cũng giống như đôi mắt xanh, đôi chân lớn hay các đặc điểm khác ở tùy từng cá nhân.
3. Chỉ số IQ có thể thay đổi theo thời gian
Có rất nhiều yếu tố khiến chỉ số IQ của con người thay đổi theo thời gian như tình trạng căng thẳng hay vấn đề dinh dưỡng. Nghiên cứu của giáo sư Nisbett cho thấy những đứa trẻ sinh sống ở điều kiện kinh tế xã hội thấp nhưng được nhận nuôi và sinh sống trong các gia đình trung lưu sẽ có thể tăng chỉ số IQ thêm 15-20 điểm.
Theo Nisbett, tính di truyền không tác động nhiều đến chỉ số IQ như nhiều người vẫn nghĩ. Các yếu tố môi trường mới có khả năng tác động mạnh đến chỉ số IQ của con người.
Trong một nghiên cứu, các nhà khoa học đã kiểm tra chỉ số thông minh của 33 người ở độ tuổi thiếu niên và kiểm tra lặp lại 4 năm sau đó. Trong một khoảng thời gian ngắn, chỉ số IQ của một số người đã thay đổi hơn 20 điểm.
Những đứa trẻ 3, 4 tuổi có thể được coi là thiên tài nếu chúng đọc sách dành cho học sinh lớn tuổi hay nói thông thạo một thứ tiếng khác. Tuy nhiên, không ai có thể dám chắc trí thông minh từ thuở nhỏ sẽ giúp chúng vượt trội hơn so với những đứa trẻ cùng lứa tuổi trong những giai đoạn phát triển khác nhau của cuộc đời.
4. Thế hệ sau thông minh hơn các thế hệ trước
Kể từ khi chỉ số IQ được tiêu chuẩn hóa lần đầu tiên vào những năm 1990, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy mức tăng ổn định về chỉ số IQ trong mỗi thế hệ sau. Một đứa trẻ 10 tuổi ngày nay sẽ có chỉ số IQ cao hơn một đứa trẻ 10 tuổi sống ở năm 1954.
Điều này không có nghĩa rằng đứa trẻ có IQ cao hơn thì có bộ não lớn hơn những thế hệ trước mà chỉ đơn giản là chúng đã cải thiện hơn trong các khả năng tư duy, phân tích và giải quyết vấn đề và sử dụng các khả năng đó trong nhiều trường hợp giả định khác nhau.
Sự thay đổi về phương pháp giáo dục, công việc của con người ở mỗi giai đoạn cũng là những nhân tố buộc mỗi người phải vận động tư duy để giải những bài toán khó hay và hình thành các phương pháp giải quyết vấn đề phức tạp.
Sức khỏe cũng là yếu tố có mức độ ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển chỉ số IQ. Tỷ lệ trẻ em được tiêm chủng sớm có thể dự báo được chỉ số IQ trung bình của mỗi quốc gia. Số lượng các bệnh truyền nhiễm trên thế giới giảm sẽ góp phần làm tăng chỉ số IQ ở các thế hệ tiếp theo trên phạm vi tổng thể.
5. Chỉ số IQ không quyết định thành công hay thất bại
Theo Van Gemert, chỉ số IQ thấp hay cao không phải là yếu tố xác định khả năng thất bại hay thành công của mỗi người. Những thói quen tốt, sự kiên trì và thái độ làm việc nghiêm túc cũng quan trọng không kém trí thông minh bẩm sinh. Thậm chí, nếu không tự phát triển các phẩm chất và năng lực bản thân, thì trí thông minh vốn có của mỗi người sẽ trở nên lãng phí.
Trên thực tế, rất nhiều học sinh và sinh viên có chỉ số IQ cao nhưng không thể thành công bởi họ thiếu sự tò mò, tính sáng tạo và khả năng để hòa hợp cùng những người khác.
Thông tin chi tiết về chỉ số thông minh IQ (intelligence quotient)
Chỉ số thông minh IQ là một khái niệm được nhà khoa học người Anh Francis Galton đưa ra trong cuốn sách Hereditary Genius xuất bản vào cuối thế kỷ 19. Sau đó, nó được học trò của ông là J.Cattell và nhà tâm lý học người Pháp Alfred Binet phát triển bằng việc thảo ra những bài trắc nghiệm để kiểm tra năng lực trí tuệ của trẻ khi đi học. Binet nhận thấy rằng có mối liên hệ giữa khả năng học của một học sinh với kết quả bài trắc nghiệm của ông. Sau đó không lâu, nhà tâm lý học người Mỹ Giáo sư Lewis Terman (Giảng viên trường đại học Standford) đã phát triển bài trắc nghiệm gồm những câu phức tạp hơn để dùng cho người trưởng thành và đặt tên là bài trắc nghiệm chỉ số thông minh Stanford-Binet; nó nhanh chóng trở nên thông dụng trên khắp nước Mỹ, bùng phát mạnh vào năm 1917 khi nước Mỹ bước vào chiến tranh thế giới thứ nhất.
Sự phân bố IQ trên người. Chỉ số IQ 100 tương ứng với mức thông minh trung bình của người.
Ban đầu IQ được tính là thương số giữa tuổi trí tuệ và tuổi thực tế nhân với 100, tuy nhiên cách tích này nhanh chóng bộc lộ những khuyết điểm nên được phát triển thành các cách tính phổ biến theo độ lệch chuẩn 15, 16, 24.
Chỉ số IQ thường được cho là có liên quan đến sự thành công trong học tập, trong công việc, trong Xã hội, những nghiên cứu gần đây cho thấy có sự liên quan giữa IQ và sức khỏe, tuổi thọ (những người thông minh thường có nhiều kiến thức hơn trong việc chăm sóc bản thân) và cả số lượng từ mà người đó sử dụng.
Trong thế kỉ 20, chỉ số IQ trung bình của con người tăng lên một cách rất chậm: đó được gọi là hiệu ứng Flynn. Nhưng chúng ta vẫn chưa thể khẳng định chắc chắn những sự thay đổi đó thể hiện chính xác sự thông minh dần thêm của con người. Trung bình chỉ số IQ trong một đời người hầu như không tăng hay giảm. Tuy nhiên vẫn có một ít người trải qua những sự thay đổi rất lớn. Ví dụ như trong một số tài liệu, một số chứng bệnh ảnh hưởng học tập có thể ảnh hưởng gây giảm chỉ số IQ rất lớn (Shaywitz, 1995).
Di truyền và môi trường tác động lên trí thông minh
Vai trò của di truyền và môi trường tác động lên trí thông minh là một đề tài nghiên cứu từ rất lâu. Khả năng thừa kế của một gene lên thế hệ sau được biểu diễn bằng một số trong khoảng từ 0 đến 1, gọi là hệ số di truyền. Ta có thể hiểu một cách khác là hệ số di truyền là phần trăm khả năng di truyền cho đời sau của một gene. Nghiên cứu ở những cặp sinh đôi và những gia đình có nhận con nuôi là những nơi thường được nghiên cứu nhiều nhất. Cho đến gần đây hệ số di truyền hầu hết chỉ được nghiên cứu ở trẻ em và người ta cho rằng hệ số di truyền trung bình là 0,5. Điều này cho thấy một nửa số trẻ trong nghiên cứu có gene đã biến dị. Phần còn lại được giải thích rằng do tính toán sai hay do yếu tố môi trường. Con số 0,5 cho thấy trí thông minh một phần là do thừa kế từ cha mẹ. Nghiên cứu ở người lớn tuy vẫn chỉ ở những mức rất sơ khai nhưng cũng có những kết quả rất thú vị: hệ số di truyền có thể lên đến 0,8. Hiệp hội tâm lý học Hoa Kì vào năm 1995 trong công trình "Intelligence: Knowns and Unknowns" (Trí thông minh: những điều đã biết và chưa biết) kết luận rằng hệ số di truyền là "khoảng 0,75".
Môi trường
Yếu tố môi trường đóng vai trò rất lớn trong nhiệm vụ xác định trí thông minh trong một số trường hợp. Một chế độ dinh dưỡng hợp lý trong lúc nhỏ được cho là rất quan trọng; sự dinh dưỡng kém có thể làm suy giảm trí thông minh. Một số nghiên cứu khác về yếu tố môi trường còn cho rằng thai phụ trước khi sinh hay cho con bú nếu tiếp xúc với những loại độc tố hay thiếu các vitamin và muối khoáng quan trọng có thể ảnh hưởng đến IQ của đứa bé. Trong xã hội đã phát triển, môi trường trong gia đình có thể tạo ra 25% sự khác biệt. Tuy nhiên, khi lớn lên, điều này hầu như biến mất. Do đó, trong một xã hội đang phát triển càng hiện đại hơn, trí thông minh của con người càng di truyền.
Theo như một số nguồn khác, đối với hầu hết những tính cách khác nhau, trái ngược với những điều được mong đợi, những ảnh hưởng từ môi trường lên những trẻ em được nhận nuôi khác hẳn so với những trẻ em được nuôi bởi chính cha mẹ của chúng. Nói một cách khác, người ta thấy con nuôi có hệ số di truyền trí thông minh vào khoảng 0,32. Tuy vậy, những ảnh hưởng trên hoàn toàn bị xóa bỏ khi đến tuổi trưởng thành.
Những ảnh hưởng của môi trường lên gene cũng được nghiên cứu. Điều này cũng được coi là một yếu tố môi trường, nhưng thay vì xác phụ thuộc của IQ vào gene, người ta nghiên cứu sự phụ thuộc giữa gene vào môi trường. Một trong số những nghiên cứu trên cho rằng 40% sự khác nhau trong một gia đình là do sự biến dị của gene.
Phát triển
Có nhiều người tin rằng sự ảnh hưởng của gene lên chỉ số IQ càng ngày càng kém quan trọng trong cuộc sống khi con người già đi và học hỏi thêm càng nhiều kinh nghiệm. Thật ngạc nhiên là điều ngược lại lại xảy ra. Đối với trẻ em, hệ số di truyền là 0,2 (20%), một thiếu niên là 0,4 và có thể lên đến 0.8 đối với người lớn.
Những ảnh hưởng của gia đình cũng có vẻ biến mất khi lớn lên. Những trẻ em nuôi sau khi lớn lên có hệ số di truyền hầu như không hề liên quan (gần 0), trong khi những anh chị em cùng cha mẹ thì con số đó là 0,6. Nghiên cứu về những cặp sinh đôi cùng trứng cho thấy con số đó sẽ được nâng lên đến 0,86.
Sự chậm phát triển trí não
Khoảng 75-80% sự chậm phát triển trí não là do di truyền, và 20-25% còn lại là do những nguyên nhân bên trong cơ thể như sự bất thường ở các nhiễm sắc thể hay chấn thương ở não. Sự chậm phát triển trí tuệ từ nhẹ đến vừa có thể có nguyên nhân là do sự rối loạn của một gene cho đến nhiều nhiễm sắc thể bất thường, có thể bao gồm hiện tượng mất đoạn nhiễm sắc thể. Theo như nhiên cứu trên những cặp sinh đôi, sự kém phát triển trí tuệ từ vừa đến nặng là không do yếu tố di truyền, nhưng dạng nhẹ của bệnh lại là do di truyền. Đó cũng là lý do họ hàng của những người kém phát triển trí tuệ nặng hầu hết đều bình thường còn trong những gia đình có người kém phát triển trí tuệ nhẹ thì có chỉ số IQ thấp hơn hẳn so với mức trung bình.
Bảng chỉ số IQ
- Kém phát triển trí tuệ dạng nhẹ: có IQ từ 50-55 đến 70, trẻ em như thế cần được giúp đỡ nhẹ nhàng.
- Kém phát triển trí tuệ dạng trung bình: có IQ từ 35-40 đến 50-55, trẻ em cần được giúp đỡ nhiều và theo dõi.
- Kém phát triển trí tuệ dạng nặng: có IQ từ 20-25 đến 35-40, trẻ chỉ có thể được dạy các kĩ năng cơ bản trong cuộc sống, cần được theo dõi thường xuyên.
- Kém phát triển trí tuệ dạng rất nặng: có IQ dưới 20-25, thường bị gây ra bởi những vấn đề về hệ thần kinh, rất cần chăm sóc thường xuyên.
Tỉ lệ mắc chứng kém phát triển trí tuệ ở nam cao hơn ở nữ, ở người da đen cao hơn người khác, theo như một nghiên cứu năm 1991 của Trung tâm Điều khiển và Phòng chống Dịch bệnh (CDC).
Đối với chủng tộc, tỉ lệ chung là 1,66% cho người da đen và 0.68% cho người da trắng. Đối với nam, da đen thì có tỉ lệ cao nhất: gấp 1,7 lần nữ, da đen; 2,4 lần so với nam, da trắng và 3,1 lần so với nữ, da trắng.
Những người có chỉ số IQ dưới 70 ở Hoa Kì sẽ được miễn tội tử hình từ năm 2002.
IQ và sự liên quan đến giáo dục và thu nhập
Nghiên cứu của Tambs cùng những cộng sự (1989) cho thấy rằng bằng cấp đạt được, nghề nghiệp cũng như IQ là di truyền được; và hơn nữa cho thấy rằng gene ảnh hưởng rất lớn lên thành công trong học tập, khoảng 25% nghề nghiệp và gần 50% biến dị về gene lên IQ. Rowe cùng những cộng sự trong công trình nghiên cứu năm 1987 cho rằng sự không đồng đều trong thu nhập và giáo dục đến hầu hết từ gene, và các yếu tố môi trường chỉ có vai trò rất phụ.
Sự quay lại
Sự di truyền của chỉ số IQ cho thấy khả năng IQ của một đứa trẻ bị ảnh hưởng từ IQ của cha mẹ. Bởi vì chỉ số IQ luôn nhỏ hơn 1 nên chỉ số IQ của đứa trẻ sẽ có xu hướng quay lại về chỉ số IQ chuẩn của dân số chung. Có thể nói, một cặp bố mẹ có chỉ số thông minh cao có nhiều khả năng có những đứa con kém thông minh hơn họ. Trong khi đó, những cặp bố mẹ có chỉ số IQ có chỉ số thông minh thấp lại có xu hướng có những đứa con thông minh hơn. Hiệu ứng trên có thể được biểu diễn bởi công thức:
Trong đó:
chỉ số IQ dự đoán của đứa bé
chỉ số IQ trung bình của xã hội
hệ số di truyền của chỉ số IQ
và : chỉ số thông minh của mẹ và bố đứa bé
Vì vậy, nếu hệ số di truyền là 50%, một cặp có IQ trung bình là 120 và sống trong xã hội có IQ trung bình là 100 thì con của họ có nhiều khả năng có IQ là 110.
IQ và bộ não
Kích cỡ bộ não
Những nghiên cứu hiện đại sử dụng kĩ thuật MRI cho thấy kích cỡ bộ não có liên quan đến IQ với một hệ số là khoảng 0,4. Một nghiên cứu trên những cặp sinh đôi do Thompson cùng những cộng sự xuất bản vào năm 2001 cho thấy rằng chất xám có liên quan đến hệ số g và cũng có hệ số di truyền rất cao (một nghiên cứu gần đây cho thấy con số đó là 0,85).
Những vùng não tương ứng với IQ
Nhiền nguồn thông tin khác nhau cùng đồng ý ở một điểm là não trước đóng một vai trò quyết định trong việc hình thành những "dòng suy nghĩ". Những bệnh nhân có những vấn đề về não trước có kết quả IQ và chất trắng cũng đã được cho là có liên quan mật thiết với trí thông minh tổng quát. Tuy nhiên, những hình chụp mới về bộ não cho thấy điều đó chỉ giới hạn ở vùng hai bên vỏ não trước. Ducan và các đồng sự khi sử dụng phương pháp chụp PET thì xác định phần não dùng để giải quyết các vấn đề liên quan rất lớn đến trí thông minh nằm ở vùng hai bên vỏ não trước. Gần đây hơn, Gray và các cộng sự (2003) đã dùng phương pháp fMRI để chứng minh ở những người có trí thông minh cao thì vùng này có thêm khả năng chống lại những sự mất tập trung. Gray và Thompson (2004) có một bài viết về điều này.
Cấu trúc bộ não và IQ
Một nghiên cứu bao gồm 307 trẻ em từ 6 đến 19 tuổi bằng cách đo kích cỡ từng phần của bộ não bằng phương pháp MRI và đo các khả năng từ vựng và suy luận đã được thực hiện (Shaw, 2006). Nghiên cứu cho thấy có một sự liên quan nào đó giữa IQ và cấu trúc của vỏ não – những người có trí thông minh cao thường có vỏ não mỏng khi nhỏ và dày dần thêm khi lớn lên.
Hiệu ứng Flynn
Trên toàn thế giới, chỉ số IQ sẽ tăng một cách chậm, còn được biết đến với tên gọi hiệu ứng Flynn (1999). Hiệu ứng Flynn đã được quan sát từ rất lâu nhưng rất khó để giải thích. Tuy nhiên, những bài kiểm tra trí thông minh luôn được điều chỉnh lại để điểm trung bình luôn là 100, ví dụ WISC-R (1974), WISC-III (1991) và WISC-IV (2003). Vì vậy, có thể nói rất khó so sánh chỉ số IQ với nhiều năm trước.
Sự liên quan IQ
Chủng tộc và trí thông minh
Trong khi chỉ số IQ của một cá thể trong những xã hội được phân bố trên cùng một thang IQ, nhưng những nhóm người khác nhau sẽ có những thang IQ có vị trí khác nhau. Trong khi người Do Thái và Đông Á có khu vực phân bố thang IQ cao hơn người châu Âu, trong khi những người Latin và ở vùng hạ Sahara lại có khu vực phân bố thang IQ thấp hơn. Rất nhiều những nghiên cứu đang được tiến hành nhằm tìm hiểu nguyên nhân của sự phân bố IQ như thế, lý do của việc đó và độ chính xác của những bài kiểm tra IQ. Một số nhà khoa học cho rằng đó là do sự khác nhau trong những điều kiện kinh tế xã hội nhưng giả thiết trên vẫn chưa được chấp nhận hoàn toàn.
Sự tìm hiểu về những vấn đề trên gây rất nhiều tranh cãi do tính chất nhạy cảm của nó.
Chỉ số IQ của các nhóm người khác nhau trên thế giới vào năm 1981. Chú thích: người châu Á: xanh dương; châu Âu: cam, Tây Ban Nha: xanh lá cây; châu Phi: vàng
Giới và trí thông minh
Theo Jackson và Rushton, một cuộc khảo sát đầu thế kỷ 20 cho thấy giới không đóng vai trò về trí thông minh. Trước đó thì Cyril Burt và Lewis Terman cũng không tìm thấy sự khác biệt về trí thông minh giữa hai giới. Năm 1995, Hedges và Nowell chỉ ra những sự khác biệt không có ý nghĩa về mặt thống kê về chỉ số IQ trung bình giữa nam và nữ sử dụng các số liệu trong các nghiên cứu phổ biến xuất bản thời đó.
Một nghiên cứu năm 1995 bởi Hiệp hội Tâm lý Hoa Kỳ cũng không chỉ ra được sự khác biệt về IQ giữa hai giới. Những nghiên cứu thực hiện giữa thập niên 1990 chỉ ra rằng có sự khác biệt nhỏ giữa chỉ số IQ của nam và nữ. Một số liệu phân tích từ 2,404 người của "California Verbal Learning Test" kết luận rằng "Khi các biến trung gian được kiểm soát, những sự khác biệt về giới có xu hướng biến mất trong các bài test có lợi thế cho nam và có xu hướng phóng đại trong các bài test có lợi thế cho nữ"."
Một nghiên cứu của Richard Lynn năm 1999 trong đó ông phân tích số liệu từ một số bài test được xuất bản trước đó và phát hiện ra rằng chỉ số IQ trung bình của nam giới cao hơn của nữ giới khoảng 3-4 điểm IQ. Các phân tích quy mô lớn của Lynn thực hiện năm 2004 khảo sát sự khác biệt giới cũng chỉ ra nam giới có chỉ số IQ trung bình cao hơn nữ là 5.0 điểm IQ. Trong một nghiên cứu khác bởi Rushton phát hiện nam giới ở độ tuổi 17 - 18 tuổi có chỉ số IQ trung bình cao hơn 3.63 điểm so với nữ. Một nghiên cứu năm 2009 đo được khoảng cách là 3-5 điểm IQ cao hơn nghiêng về nam giới.
Tuy nhiên gần đây, một số các nghiên cứu cho rằng những người đồng tính hay song tính có chỉ số IQ cao hơn những người khác.
Tôn giáo và IQ
Một số nghiên cứu đã được tiến hành nhằm tìm hiểu mối liên hệ giữa trí thông minh (được đo bằng trình độ học vấn, điểm số và một số yếu tố khác) và tín ngưỡng, và đã rút ra được rằng đa số những người không có bất cứ tín ngưỡng nào thường có chỉ số IQ cao hơn những người khác.
Sức khỏe và IQ
Một người có trí thông minh cao thường ít bị bệnh tật nặng hơn và sống lâu hơn. Điều đó có thể là bởi vì họ có khả năng né tránh những chấn thương tốt hơn và chăm sóc sức khỏe của mình tốt hơn và mặt khác, họ thường có đời sống kinh tế khá giả hơn. Nó cũng giúp chống lại trầm cảm, tuyệt vọng.
Nghiên cứu ở Scotland cho thấy những người có IQ thấp hơn trung bình 15 điểm có cơ hội mừng sinh nhật thứ 76 của mình thấp hơn 1/5 so với trung bình. Những người có IQ nhỏ hơn 30 điểm thì tỉ lệ đó giảm 37%.
Sự phát triển kinh tế và IQ
Một số cuốn sách gây tranh cãi của tác giả Dr. Richard Lynn, Professor Emeritus về tâm lý học tại Đại học Ulster, Bắc Ireland, và Dr. Tatu Vanhanen, Professor Emeritus về khoa học chính trị tại Đại học Tampere, Tampere, Phần Lan IQ and the Wealth of Nations (2002) (IQ và sự thịnh vượng của quốc gia) và IQ and Global Inequality (2006) cho rằng sự giàu có của một quốc gia một phần lớn có thể giải thích bằng cách nhìn vào chỉ số IQ trung bình của nước đó. Luận điểm trên đã và đang được ủng hộ nhưng cũng có nhiều chê bai. Thông tin đó đang được đặt câu hỏi để nghiên cứu thêm.
Sự hiệu quả thực tế
Bằng chứng về hiệu quả thực tế của chỉ số thông minh được kiểm chứng bằng cách kiểm soát độ liên quan giữa IQ và thực tế cuộc sống.
Những điều kiện kinh tế và xã hội liên quan đến IQ
Đặc điểm về kinh tế và xã hội của IQ
Nghiên cứu cho rằng trí thông minh tổng quát đóng một vai trò rất quan trọng trong cuộc sống. Bên cạnh sự thành công trong trường học, IQ có một vai trò hết sức quan trọng hiệu quả làm việc, thăng tiến, địa vị xã hội và cả tỉ lệ phạm tội, nghèo khó, thất nghiệp, có con ngoài giá thú,... Nghiên cứu gần đây cũng đưa ra những mối liên hệ giữa trí thông minh và sức khỏe, sống thọ, số lượng từ vựng được người đó sử dụng. Mối liên hệ giữa hệ số g và cuộc sống khá rõ ràng trong khi IQ và hạnh phúc thì hầu như không. IQ và hệ số g liên quan rất nhiều với nhau trong trường học, nhưng ít hơn trong nghề nghiệp, trung bình trong thu nhập và có một phần nhỏ đến tình trạng phạm tội.
Trí thông minh tổng quát chính là một tiên đoán gần đúng nhất cho khả năng làm việc của con người. Độ liên quan thể hiện mức độ giống nhau giữa những gì mà họ thể hiện trong bài kiểm tra và trong thực tế (được đo bằng nhiều tiêu chí, trong đó có đánh giá của thủ trưởng, thăng thưởng,...) là một con số từ -1,0 (sai hoàn toàn) đến 1,0 (đúng hoàn toàn). Người ta nhận thấy rằng độ liên quan với những việc chưa từng làm là 0,2 trong khi những việc đã có kinh nghiệm là 0,8.
Một cuộc phân tích lớn (Hunter and Hunter, 1984) trên 32,124 công nhân trên phương diện thông minh tổng quát cho thấy rằng độ liên quan của những người mới vào làm là 0,54, thử việc 0,44, có kinh nghiệm 0,18, phỏng vấn 0,14, tuổi tác -0,01, đang được huấn luyện 0,10. Một bài kiểm tra được thiết kế tốt có thể cho phép các công ty lựa chọn những người có IQ cao. Đó cũng là lý do sau khi xem xét tất cả các ứng viên, người ta thường có phỏng vấn (độ liên quan 0,14) hơn lựa chọn ngẫu nhiên (độ liên quan 0,00).
Tuy nhiên, có những hàng rào luật pháp như quyền con người, như trong năm 1971, tòa án tối cao Hoa Kì sau vụ án Griggs và công ty năng lượng Duke đã cấm hoàn toàn việc các công ty Hoa Kì dùng những bài kiểm tra thông minh để lựa chọn nhân viên khi kết quả của bài kiểm tra có ảnh hưởng quyết định đến việc người đó có được nhận vào làm hay không. Tuy nhiên, Microsoft rất nổi tiếng trong việc sử dụng những bài kiểm tra trên một cách bất hợp pháp bằng cách kết hợp nó với quá trình phỏng vấn, và đôi khi họ đặt vấn đề thông minh cao hơn cả kinh nghiệm.
Những nhà khoa học cũng đã lên tiếng "trong kinh tế, sự đo lường trí thông minh đồng nghĩa với sự suy giảm những giá trị đạo đức"(Detterman and Daniel, 1989, xem thêm ở.
Tuy nhiên, một số nghiên cứu về IQ tiếp tục tìm ra những lợi ích của sự thông minh ở một mức độ cao. Khả năng làm việc là một ví dụ, tăng dần theo IQ (Coward và Sackett, 1990). Trong cuộc phân tích hàng trăm đứa trẻ, người ta thấy rằng IQ có một hiệu quả rất lớn lên thu nhập bình quân của gia đình (Murray, 1998).
Một số những nhà nghiên cứu khác đặt một câu hỏi liệu IQ có là nguyên nhân của sự giàu có và sự không đồng đều về kinh tế trong một quốc gia hay không? Câu trả lời là dưới một phần sáu thu nhập bị ảnh hưởng bởi trí thông minh. Trong một nghiên cứu gần đây vào năm 2002, người ta còn tìm thấy rằng chủng tộc, của cải, học vấn mới có những vai trò chủ chốt trong việc quyết định tình trạng kinh tế trong tương lai còn IQ là một yếu tố nhỏ và sự di truyền trí thông minh còn đóng một vai trò còn nhỏ hơn thế. Nhiều người xem IQ là một biện pháp tình thế của chính phủ các nước nhằm không chấm dứt tình trạng nghèo khổ. Một số khác cho IQ là nguyên nhân của xã hội phong kiến, đối xử bất bình đẳng với phụ nữ. Cũng có ý kiến cho rằng những người có trí thông minh cao thường cho rằng trí thông minh rất quan trọng khiến nhiều người bực mình trong cách cư xử của họ.
Những chỉ trích xung quanh vấn đề IQ
Trong tác phẩm The Mismeasure of Man, giáo sư Stephen Jay Gould cho rằng chỉ số IQ chỉ là một cách phân biệt chủng tộc cao cấp của những nhà khoa học.
Arthur Jensen, giáo sư khoa tâm lý giáo dục, Đại học California tại Berkeley hưởng ứng ý kiến của Gould và có một bài báo mang tên The Debunking of Scientific Fossils and Straw Persons (Vạch trần những luận điểm khoa học cũ kĩ của những người rơm).
Hiệp hội của những người có IQ cao (High IQ societies)
Top 5% (1 trên 20; IQ 124 sd15, IQ 126 sd16, IQ 139 sd24): International High IQ Society
Top 2% (1 trên 50; IQ 130 sd15, IQ 132 sd16, IQ 148 sd24): Encefálica Society, High Potentials Society, Mensa International, Mysterium Society
Top 1% (1 trên 100; IQ 135 sd15, IQ 137 sd16, IQ 156 sd24): Intertel, Top One Percent Society
Top 0,7% (1 trên 147; IQ 137 sd15): Sunesis Society(Defunct)
Top 0,5% (1 trên 200; IQ 139 sd15, IQ 141 sd16, IQ 162 sd24): Colloquy (Society), Poetic Genius Society
Top 0,37% (1 trên 270; IQ 140 sd15, IQ 142 sd16, IQ 163 sd24): Infinity International Society, HispanIQ International Society
Top 0,3% (3 trên 1 nghìn; IQ 141 sd15, IQ 144 sd16, IQ 166 sd24): Cerebrals Society
Top 0,2% (1 trên 500; IQ 143 sd15, IQ 146 sd16, IQ 169 sd24): exactiq high IQ society
Top 0,13% (13 trên 10.000; IQ 145 sd15, IQ 148 sd16, IQ 172 sd24): CIVIQ Society
Top 0,1% (1 trên 1 nghìn; IQ 146 sd15, IQ 149 sd16, IQ 174 sd24): Glia Society, International High IQ Society Milenija, International Society for Philosophical Enquiry, Iquadrivium Society, One-in-a-Thousand Society, Triple Nine Society
Top 0,07% (1 trên 1400, IQ 148 sd15, IQ 151 sd16, IQ 177 sd24): ISI-society
Top 0,003% (3 trên 100 nghìn; IQ 160 sd15, IQ 164 sd16, IQ 196 sd24): Homo Universalis high IQ society, Tetra Society
Top 0,001% (1 trên 100 nghìn; IQ 164 sd 15, IQ 168 sd 16, IQ 202 sd24): eximia high IQ society, The Ultranet
Top 0,0001% (1 trên 1 triệu; IQ 172 sd15, IQ 176 sd16, IQ 214 sd24): Mega Society, GenerIQ Society
Top 0,0000001% (1 trên 1 tỷ, IQ 190 sd15, IQ 196 sd16, IQ 244 sd24): Nano Society.
Tags: IQ là gì,EQ là gì,chỉ số thông minh IQ,chỉ số cảm xúc EQ,chỉ số thông minh,chỉ số cảm xúc,chỉ số IQ trung bình là bao nhiêu,cách tính chỉ số IQ,IQ,EQ,intelligence quotient,Emotional Quotient
Câu hỏi mới nhất:
- Tại sao con gái lại phải đeo bông tai (vàng)?
- Tìm từ nói về sự gắn kết nghĩa tình vợ chồng?
- Có chí làm quan, có gan làm giàu nghĩa là gì vậy?
- Có phải do phím bị liệt không?
- Cách viết ngày tháng trong tiếng Anh: ngày trong tháng, ngày trong tuần, tháng trong năm
- Gapyear có ảnh hưởng đến việc xét vào Đại học không ạ?
- Bạn A đăng tải hình ảnh của bạn B lên mạng xã hội mà chưa được sự đồng ý của bạn B, hành vi của bạn A có vi phạm pháp luật không? Vì sao?
- Làm thế nào để quên crush cũ?
- Tại sao cr lại cười mỗi khi ai đó nhắc tên tớ trước mặt cậu ấy?
- Cho con học trường quốc tế hệ General thì xét vào đại học bằng cách nào vậy mọi người?
- Xem tất cả câu hỏi >>
Câu hỏi khác:
- Ma nơ canh là gì?
- Đèn măng-sông là đèn gì?
- Đèn bão là đèn gì?
- Đèn Hoa Kỳ là đèn gì?
- Làm sao để tắt Phản hồi đánh giá điện thoại 215 của Nokia trên màn hình điện thoại?
- Ngành dọc là gì, ngành ngang là gì (trong cơ quan nhà nước)?
- Dập dờn hay rập rờn?
- Ngó sen là gì? Công dụng của ngó sen
- Cát lợn là gì?
- Thủy triều đỏ là gì?
Bạn có câu hỏi cần giải đáp, hãy gửi cho mọi người cùng xem và giải đáp tại đây, chúng tôi luôn hoan nghênh và cảm ơn bạn vì điều này: Gửi câu hỏi
Ngoài ra, bạn cũng có thể gửi lên Lazi nhiều thứ khác nữa Tại đây!
Ngoài ra, bạn cũng có thể gửi lên Lazi nhiều thứ khác nữa Tại đây!