Thu nhật Quỳ phủ vịnh hoài phụng ký Trịnh giám, Lý tân khách nhất bách vận (Đỗ Phủ)
Ruby | Chat Online | |
29/06/2019 17:46:37 | |
Văn học nước ngoài | Sưu tầm | Tp cùng người đăng | Báo cáo vi phạm |
- * Thu nhật ký đề Trịnh giám hồ thượng đình kỳ 3 (Đỗ Phủ) (Văn học nước ngoài)
- * Thu nhật ký đề Trịnh giám hồ thượng đình kỳ 2 (Đỗ Phủ) (Văn học nước ngoài)
- * Thu phong kỳ 1 (Văn học nước ngoài)
- * Thu phong kỳ 2 (Đỗ Phủ) (Văn học nước ngoài)
Tuyệt tái Ô Man bắc,
Cô thành Bạch Đế biên.
Phiêu linh nhưng bách lý,
Tiêu khát dĩ tam niên.
Hùng kiếm minh khai hạp,
Quần thư mãn hệ thuyền.
Loạn ly tâm bất triển,
Suy tạ nhật tiêu nhiên.
Cân lực thê noa vấn,
Tinh hoa tuế nguyệt thiên.
Đăng lâm đa vật sắc,
Đào dã lại thi thiên.
Giáp thúc thương giang khởi,
Nham bài thạch thụ viên.
Phất vân mai Sở khí,
Triêu hải xúc Ngô thiên.
Chử tỉnh vi diêm tốc,
Thiêu dư độ địa thiên.
Hữu thì kinh điệp chướng,
Hà xứ mịch bình xuyên.
Khê sắc song song vũ,
Di viên luỹ luỹ huyền.
Bích la trường tự đới,
Cẩm thạch tiểu như tiền.
Xuân thảo hà tằng hiết,
Hàn hoa diệc khả liên.
Liệp nhân xuy thú hoả,
Dã điếm dẫn sơn tuyền.
Hoán khởi tao đầu cấp,
Phù hành kỷ kịch xuyên.
Lưỡng kinh do bạc sản,
Tứ hải tuyệt tuỳ kiên.
Mạc phủ sơ giao tịch,
Lang quan hạnh bị viên.
Qua thì do lữ ngụ,
Bình phiếm khổ di duyên.
Dược nhị hư lang tạ,
Thu phong sái tĩnh tiên.
Khai sam khu chướng lệ,
Minh mục tảo vân yên.
Cao yến chư hầu lễ,
Giai nhân thượng khách tiền.
Ai tranh thương lão đại,
Hoa ốc diễm thần tiên.
Nam Nội Khai Nguyên khúc,
Thường thì đệ tử truyền.
Pháp ca thanh biến chuyển,
Mãn toà thế sàn viên.
Điếu ảnh Quỳ Châu tích,
Hồi trường Đỗ Khúc tiên.
Tức kim Long Cứu thuỷ,
Mạc đới Khuyển Nhung thiên.
Cảnh, Nghị phù vương thất,
Tiêu, Tào củng ngự diên.
Thừa uy diệt phong sái,
Lục lực hiệu ưng chiên.
Cựu vật sâm do tại,
Hung đồ ác vị thuân.
Quốc tu hành chiến phạt,
Nhân ức chỉ qua thiên.
Nô bộc hà tri lễ,
Nhân vinh thố dữ quyền.
Hồ tinh nhất tuệ bột,
Kiềm thủ toại câu luyên.
Ai thống ti luân thiết,
Phiền hà pháp lệnh quyên.
Nghiệp thành trần thuỷ vượng,
Triệu hỉ xuất ư điền.
Cung cấm kinh luân mật,
Đài giai dực đới tuyền.
Hùng bi tải Lã Vọng,
Hồng nhạn mỹ Chu Tuyên.
Trắc thính trung hưng chủ,
Trường ngâm bất thế hiền.
Âm huy Nhất Trụ số,
Đạo lý Hạ Lao thiên.
Trịnh, Lý quang thì luận,
Văn chương tính ngã tiên.
Âm, Hà thượng thanh tỉnh,
Thẩm, Tống hốt liên phiên.
Luật tỉ Côn Luân trúc,
Âm tri táo thấp huyền.
Phong lưu câu hỉ giá.
Khiếp đương cửu vong thuyên.
Trí dịch thường như thử,
Đăng long cái hữu yên.
Tuy vân cách lễ số,
Bất cảm truỵ chu triền.
Cao thị thu nhân biểu,
Hư tâm vị đạo huyền.
Mã lai giai hãn huyết,
Hạc lệ tất thanh điền.
Vũ dực Thương Sơn khởi,
Bồng Lai Hán các liên.
Quản Ninh sa mạo tịnh,
Giang lệnh cẩm bào tiên.
Đông quận thì đề bích,
Nam hồ nhật khấu huyền.
Viễn du lăng tuyệt cảnh,
Giai cú nhiễm hoa tiên.
Mỗi dục cô phi khứ,
Đồ vi bách lự khiên.
Sinh nhai dĩ liêu lạc,
Quốc bộ nãi truân chiên.
Khâm chẩm thành vu một,
Trì đường tác khí quyên.
Biệt ly ưu đát đát,
Phục lạp thế liên liên.
Lộ cúc ban Phong Cảo,
Thu sơ ảnh Giản Triền.
Cộng thuỳ luận tích sự,
Kỷ xứ hữu tân thiên.
Phú quý không hồi thủ,
Huyên tranh lãn trước tiên.
Binh qua trần mạc mạc,
Giang Hán nguyệt quyên quyên.
Cục xúc khan thu yến,
Tiêu sơ thính vãn thiền.
Điêu trùng mông ký ức,
Phanh lý vấn trầm miên.
Bốc tiễn Quân Bình trượng,
Thâu tồn Tử Kính chiên.
Nang hư bả thoa xuyến,
Mễ tận sách hoa điền.
Cam tử âm lương diệp,
Mao trai bát cửu duyên.
Trận đồ Sa bắc ngạn,
Thị kỵ Nhương Tây điên.
Ky bạn tâm thường chiết,
Thê trì bệnh tức thuyên.
Tử thụ Mân lĩnh dụ,
Bạch chủng lục trì liên.
Sắc hảo lê thắng giáp,
Nhương đa lật quá quyền.
Sắc trù duy nhất vị,
Cầu bão hoặc tam chiên.
Nhi khứ khan ngư cú,
Nhân lai toạ mã tiên.
Phọc sài môn trách trách,
Thông trúc lựu quyên quyên.
Tiệm để công huề lắng,
Thôn y dã miếu diên.
Khuyết ly tương cức cự,
Đảo thạch lại đằng triền.
Tá vấn tần triều yết,
Hà như ẩn tuý miên.
Thuỳ vân hành bất đãi,
Tự giác toạ năng kiên.
Vụ vũ ngân chương sáp,
Hinh hương phấn thự nghiên.
Tử loan vô cận viễn,
Hoàng tước nhiệm phiên huyên.
Khốn học vi tòng chúng,
Minh công các miễn chiên.
Thanh hoa giáp thần cực,
Tảo vãn đáo tinh triền.
Khẩn gián lưu khuông đỉnh,
Chư nho dẫn phục kiền.
Bất phùng thâu ngạnh trực,
Hội thị chính đào chân.
Tiêu cán ưu nghiêu chẩn,
Lê nguyên tật khổ biền.
Vân đài chung nhật hoạ,
Thanh giản vị thuỳ biên.
Hành lộ nan khả hữu,
Chiêu tầm hứng dĩ truyền.
Do lai câu phi tiếp,
Tiệm nghĩ khống minh huyền.
Thân hứa Song Phong tự,
Môn cầu thất tổ thiền.
Lạc phàm truy túc tích,
Y hạt hướng chân thuyên.
An Thạch danh cao Tấn,
Chiêu vương khách phó Yên.
Đồ trung phi Nguyễn Tịch,
Tra thượng tự Trương Khiên.
Phi phất vân ninh tại,
Yêm lưu cảnh bất diên.
Phong kì chung phá lãng,
Thuỷ quái mạc phi diên.
Tha nhật từ Thần Nữ,
Thương xuân khiếp đỗ quyên.
Đạm giao tuỳ tụ tán,
Trạch quốc nhiễu hồi triền.
Bản tự y Ca Diếp,
Hà tằng tạ Ốc Thuyên.
Lư phong sinh chuyển phán,
Quất tỉnh thượng cao khiên.
Đông tẩu cùng quy hạc,
Nam chinh tận diếp diên.
Vãn văn đa diệu giáo,
Thốt tiễn tắc tiền khiên.
Cố Khải đan thanh liệt,
Đầu đà uyển diễm tuyên.
Chúng hương thâm ám ám,
Kỷ địa túc thiên thiên.
Dũng mãnh vi tâm cực,
Thanh luy nhiệm thể sàn.
Kim bề không quát nhãn,
Kính tượng vị ly thuyên.
Dịch nghĩa
Ở nơi biên giới cùng cực bắc của vùng Ô Man,
Và cũng là bên lề thành Bạch Đế trơ vơ.
Lưu lạc hơn cả trăm dặm,
Bị bệnh tiểu đường đã ba năm rồi.
Gươm thiêng ra khỏi bao còn vang tiếng mạnh,
Sách để đầy nơi con thuyền cột bến.
Loạn ly lòng chẳng khuây,
Mòn mỏi ngày càng buồn.
Vợ con hỏi thăm sức khoẻ mình,
Cái tinh anh giảm dần theo ngày tháng.
Lên cao chơi càng nhiều cảnh đẹp,
Sửa tính nhờ vào bài thơ.
Kẽm thu hẹp lại là khởi đầu cho sông trong,
Sườn núi phơi khóm tường vi (thạch nam) tròn vạnh.
Mây sớm bay mang hơi vùng Sở,
Biển chiều vượt trời Ngô.
Đun nước giếng để chóng có muối,
Đốt nương để có miếng đất nhỏ.
Có lúc sợ hãi vì đồi núi che lấp,
Nơi nào mà thấy được dòng sông phẳng lặng.
Cặp khê sắc cùng múa đôi,
Bày khỉ vượn đeo lủng lẳng.
Dây leo xanh dài như giải áo,
Đá sỏi xanh nhỏ như đồng tiền.
Cỏ non sao lại tàn úa,
Hoa bị lạnh thật cũng đáng thương.
Kẻ đi săn đốt lửa canh,
Quán quê cạnh suối núi.
Gọi dậy vội búi tóc,
Dìu đi khiến bao lần dép bị tụt.
Hai kinh tài sản teo lại,
Bốn bể không vai gánh vác.
Trong cơ quan mới quen thì bị lánh xa,
Làm quan may lắm được vô trong nhóm cho đủ số.
Lúc giao ban coi như ở tạm,
Bèo bọt khổ vì phải chạy kiếm việc.
Thuốc thang bỏ bừa bãi,
Gió thu thổi hiu hiu.
Cởi áo để xua khí độc,
Mở to mắt để quét quang mây khói.
Tiệc lớn là lễ cho chư hầu,
Người đẹp trước cả khách quý.
Tiếng đàn ai oán làm mủi lòng người già,
Phòng ốc đẹp dành cho thần tiên.
Cung Nam Nội, khúc hát thời Khai Nguyên,
Lúc thường truyền trong đám học trò,
Bắt chước điệu hát theo lời đã đổi,
Cả phòng nước mắt tràn trề.
Bóng cô đơn nơi Quỳ Châu vắng vẻ,
Lòng nôn nóng đi về Đỗ Khúc.
Tới nay tại nước ngay cửa Long Cứu,
Chớ để vương mùi hôi Khuyển Nhung.
Cảnh, Giả phục vụ vua,
Tiêu, Tào chầu bên tiệc vua.
Nhờ uy vua để dẹp bọn ong, bò cạp,
Xé sác bắt chước chim ưng chim diều hâu.
Vật cũ còn đầy đủ,
Mà cái ác của bọn dữ không giảm.
Nhà nước thì theo đuổi mãi chinh chiến,
Trong khi nhân dân mong hoà bình.
Tôi tớ làm sao mà biết được lễ nghi,
Hưởng ơn vua dễ sinh sai lầm lộng quyền.
Khi sao chổi xuất hiện,
Đầu đen (nhân dân) chịu cảnh áp bức.
Đau buồn như dây tơ cột,
Rầy rà được pháp lệnh giải tan.
Sự nghiệp thành đạt trước tiên trình nơi vua,
Điềm lành phát từ vùng ruộng.
Nơi cung cấm làm việc kín đáo,
Dưới thềm vua một lòng giúp sức.
Báo beo như Lã Vọng,
Chim hồng chim nhạn làm vẻ vang Chu Tuyên Vương.
Nghe đồn vị chúa trùng hưng,
Ngâm dài thật là người hiền hiếm có.
Vài tin tức từ Nhất Trụ,
Đường tới Hạ Lao dài kể cả ngàn.
Cùng với Trịnh, Lý bàn về lúc thái bình,
Văn chương của hai ông đều hơn tôi.
Như Âm, Hà còn trong sáng,
Thẩm, Tống bỗng bùng lên.
Về luật có thể coi như trúc nơi Côn Lôn,
Về âm nghe như lời thăm hỏi chí tình từ dây đàn.
Tính chân thật luôn được đánh giá cao,
Được việc rồi thường quên nơm.
Thay ngựa thường như thế,
Leo rồng há vậy sao.
Tuy rằng xa cách lễ tiết,
Nhưng nào dám bỏ không chu toàn.
Ngẩng nhìn cao để thu cái tốt của con người,
Giữ lòng trống để thấy cái mùi huyền bí của đạo.
Những ngựa tới với mình đều là giống mồ hôi máu,
Hạc kêu tất là ở nơi cánh đồng xanh.
Tung cánh từ vùng Thương Sơn,
Vụt tới cung Bồng Lai có gác của vua.
Mũ the của Quản Ninh sạch sẽ,
Áo gấm của Giang lệnh mới tinh.
Khi ở Đông quận có thơ đề trên tường,
Nơi Nam hồ ngày ngày gõ mạn thuyền.
Đi chơi xa tới những vùng cảnh đẹp,
Các câu thơ hay trải đầy trên trang giấy hoa.
Mỗi khi muốn tung bay đi,
Đều là vị trăm mối lo thúc đẩy.
Cách kiếm sống đã lận đận,
Vận nước lại càng chìm nổi.
Áo với gối cứ trùm kín mít vì bệnh,
Chăm làm nhà đào ao để bớt lo nghĩ.
Biệt ly lo ngay ngáy,
Ngày đông tháng hè khóc sướt mướt.
Hoa cúc thấm sương khiến có vằn như vùng Phong Cảo,
Rau mùa thu soi bóng trên sông Giản Triền.
Cùng ai mà bàn chuyện xưa,
Nơi nào là nơi có mả mới.
Cảnh phú quý quay đầu lại nhìn thấy trống không,
Ồn ào lười quất ngựa tranh đi trước.
Bụi chiến tranh mù cả trời,
Trăng nơi Giang Hán vằng vặc.
Thấp thỏm trông chim én mùa thu,
Văng vẳng nghe tiếng ve chiều.
Gọt dũa phải đào sâu vào ký ức,
Nấu cá hỏi thăm kẻ đang nằm bệnh.
Coi bói ham được cái gậy của Quân Bình,
Ăn trộm còn để lại cái mền của Tử Kính.
Túi rỗng mà đeo thoa xuyến,
Gạo hết, đồ trang sức cũng tiêu tan.
Cây cam bóng lá mát,
Nhà tranh tám chín kèo.
Trận được mưu đặt ở bãi Sa bắc,
Chợ họp ở đỉnh Nhương Tây.
Ở trọ lòng thường tan vỡ,
Nấn ná bệnh có giảm bớt.
Đỉnh núi đào khoai đỏ,
Ao cạn trồng sen trắng.
Sắc đẹp, trái lê hơn gò má,
Phân tốt, trái lật to hơn nắm tay.
Trong bếp chỉ có một vị,
Cầu no dù chỉ có con cá thiện dài ba tấc.
Con trai đi coi đơm cá,
Khách tới thăm cứ ngồi trên yên ngựa.
Gò bó trong cửa sài chật hẹp,
Thoáng thông dòng trúc dạt dào.
Ruộng nhà nước được bờ hào ngăn chặn,
Thôn ngay kề vạt đất của miếu hoang.
Dậu trống lấy cây gai lấp.
Đá lăn nhờ dây leo giữ.
Thử hỏi nhiều lần chầu vua,
Sao như kẻ ngủ say một xó.
Ai nói đi không kịp,
Tự biết thì ngồi có thể vững.
Mưa mù làm mờ đai bạc,
Hương thơm làm đẹp nhà quan.
Xa gần không có chim loan tím,
Chim vàng anh bay không ngớt.
Gặp cảnh cùng khổn mà biết được làm xa cách bạn bè,
Các ông đều cố gắng vậy thay.
Danh văn chương gần nơi sao bắc,
Sớm muộn thì cũng soi sáng như sao.
Hết lòng can ngăn để giữ vững giềng mối nước nhà,
Các nhà nho vẫn được ca ngợi cái lòng kiên quyết đó.
Không chịu tiếp thu những lời nói thẳng,
Đó chính là cái để rèn đúc mình.
Sớm tối lo ngay ngáy,
Dân đen cứ đeo mãi khổ tật.
Đài mây suốt ngày vẽ,
Tre xanh vì ai mà ghi chép.
Sao có đường đi khó,
Mời gọi hứng đã truyền đi.
Vì cớ cái mái chèo bay sẵn có,
Tạm bắt chước ngưng cái dây neo kêu.
Thân đã hứa nơi chùa Song Phong,
Cửa chùa đang đi tìm ông tổ thứ bảy cho phái thiền.
Cánh buồm lạc nẻo nghĩ đến thời xưa,
Áo vải thô đi tìm chân lý.
Ông Trịnh Thẩm có được cái tác phong cao vời của An Thạch đời Tấn,
Còn Lý Chi Phương có được cái đẹp của Chiêu vương cai quản vùng Yên.
Giữa đường mình chẳng phải là Nguyễn Tịch,
Trên bè thì mình lại như Trương Khiên.
Phủi phất thì mây lẻ nào tụ,
Ngưng đọng thì cảnh chẳng kéo dài.
Cuối cùng gió cũng tung sóng,
Chớ lấy làm lạ về việc nước làm toé bọt.
Ngày trước rời núi Thần Nữ,
Nhớ xuân mà chim đỗ quyên e dè (nên trốn lủi),
Giao thiệp nhạt nhẽo thì chúng bạn xa cách,
Vùng ngập nước này cứ vòng vo mãi.
Gốc vốn nương theo Ca Diếp,
Thế mà sao còn theo Ốc Thuyên nữa.
Ngọn núi Lư kia sinh ra trong chớp mắt.
Xuống giếng quất còn phải vén cao quần.
Chạy về đông như chim hạc lỡ đường,
Xuống nam đánh giặc tới tận vùng có con vịt bì bõm.
Chiều nghe nhiều lời dạy thâm thuý,
Bỗng thấy lỗi lầm ngày trước tan biến ngay.
Tranh vẽ của Cố Khải Chi như đã chỉ rõ cho thấy,
Vẻ từ bi của vị đầu đà như được hiện rõ ra.
Hương thơm dày mù mịt,
Chốn nào cung kính lâng lâng.
Mạnh nhất là ở nơi tinh thần,
Điểm yếu là ở cơ thể nhu nhược.
Móc bằng kim loại không làm sáng mắt,
Xét cái hình trong gương tức là chưa xa rời cái chứa đựng nó.
(Năm 767)
Trịnh Thẩm lúc này bị biếm ra vùng Giang Lăng, Lý Chi Phương từ Thổ Phồn về được cử làm thượng thư bộ lễ và sau đó là thái tử tân khách.
Tác phẩm mới nhất:
- Kỉ niệm với 1 người thân (Văn học trong nước)
- Bốn mùa trong vườn (Văn học trong nước)
- Tặng cô (Hoàng Phương Linh) (Văn học trong nước)
- Miền trung anh dũng (Dương Tùng Lâm) (Văn học trong nước)
- Mai xa trường - Thời học sinh bước qua (Lê Vũ Anh) (Văn học trong nước)
- Lời dặn (Lê Vũ Anh) (Văn học trong nước)
- Suy Ngẫm (Lê Vũ Anh) (Văn học trong nước)
- Bạch Tuyết (Văn học trong nước)
- Lớp em (Đào Gia Như) (Văn học trong nước)
- Đồng quê tôi (Văn học trong nước)
- Xem tất cả tác phẩm >>
Ngoài ra, bạn cũng có thể gửi lên Lazi nhiều thứ khác nữa Tại đây!