LH Quảng cáo: lazijsc@gmail.com

Quỳ phủ thư hoài tứ thập vận (Đỗ Phủ)

125 lượt xem
Quỳ phủ thư hoài tứ thập vận

Tích bãi Hà Tây uý,
Sơ hưng Kế Bắc si (sư).
Bất tài danh vị vãn,
Cảm hận tỉnh lang trì.
Hỗ thánh Không Đồng nhật,
Đoan cư Diễm Dự thì.
Bình lưu nhưng cấp dẫn,
Xư tán thượng ân ti (tư).
Toại trở Vân đài túc,
Thường hoài Trạm lộ thi.
Thuý hoa sâm viễn hĩ,
Bạch thủ táp thê kỳ.
Chuyết bị lâm tuyền trệ,
Sinh phùng tửu phú khi.
Văn Viên chung tịch mịch,
Hán các tự lân truy.
Bệnh cách quân thần nghị,
Tàm hu đức trạch ti (tư).
Dương tiêu kinh chủ nhục,
Bạt kiếm bạt niên suy.
Xã tắc kinh luân địa,
Phong vân tế hội kỳ.
Huyết lưu phân tại nhãn,
Thế lệ loạn giao di.
Tứ độc lâu thuyền phiếm,
Trung nguyên cổ giác bi.
Tặc hào liên Bạch Địch,
Chiến ngoã lạc đan trì.
Tiên đế nghiêm linh tẩm,
Tông thần thiết thụ di.
Hằng sơn do đột kỵ,
Liêu Hải cánh trương kỳ.
Điền phụ ta giao tất,
Hành nhân tị tật lê.
Tổng nhung tồn đại thể,
Giáng tướng sức ti từ.
Sở cống hà niên tuyệt,
Nghiêu phong cựu tục nghi.
Trường dụ phiên bắc khấu,
Nhất vọng quyển tây di.
Bất tất bồi Huyền Phố,
Siêu nhiên đãi Cụ Tì.
Hưu binh chú nông khí,
Giảng điện tích thư duy.
Miếu toán cao nan trắc,
Thiên ưu thực tại tư.
Hình dung chân lạo đảo,
Đáp hiệu mạc chi trì.
Sứ giả phân vương mệnh,
Quần công các điển ti.
Khủng quai quân phú liễm,
Bất tự vấn sang di.
Vạn lý phiền cung cấp,
Cô thành tối oán ti (tư).
Lục lâm ninh tiểu hoạn,
Vân mộng dục nan truy.
Tức sự tu thường đảm.
Thương sinh khả sát mi.
Nghị đường do tập phượng,
Chính quán thị nguyên quy.
Xứ xứ huyên phi hịch,
Gia gia cấp cạnh truỳ.
Tiêu xa an bất định,
Thục sứ há hà chi.
Điếu lại sơ phần tịch,
Canh nham tiến dịch kỳ,
Địa chưng dư phá phiến,
Đông noãn cánh tiêm hi.
Sài cấu ai đăng Sở,
Lân thương khấp tượng Ni.
Y quan mê thích Việt,
Tảo hội ức du Tuy.
Thưởng nguyệt diên thu quế,
Khuynh dương trục lộ quỳ.
Đại đình chung phản phác,
Kinh quan thả cương thi.
Cao chẩm hư miên trú,
Ai ca dục hoạ thuỳ.
Nam cung tái huân nghiệp,
Phàm bách thận giao tuy.

 

Dịch nghĩa

Lúc xưa khi từ chối chức uý ở Hà Tây,
Vào lúc mới trung hưng lại làm thày vùng Kế Bắc.
Không có tài nên công danh địa vị chậm có,
Cảm thấy bực vì làm quan nơi trung ương cứ bị trì hoãn.
Những ngày theo hầu vua chốn Không Đồng,
Lúc lại nằm bẹp nơi Diễm Dự.
Bèo trôi nhưng vẫn còn được đề bạt,
Cành xoan gãy mà còn đội ơn vua.
Gặp trắc trở không ở trong Vân đài,
Nhưng vẫn ghi nhớ thơ Trạm lộ.
Vẻ hào hoa thôi xa rồi,
Đầu bạc nay xơ xác.
Vụng về nên mới sa vào nơi rừng rú,
Sống vào thời người ta coi thường bài phú về rượu.
Hiếu Văn Viên cuối cùng cũng im lìm,
Gác Hán tự nó bị bôi đen.
Vì mang bệnh nên không được cùng vua và các quan bàn luận,
Ngượng ngùng mãi trong lòng vì phúc đức ít.
Quyết chí vì sợ chủ bị nhục,
Vung gươm mặc dù sức đã suy.
Đất nước là nơi mình trổ tài,
Vòng công danh là nơi mình hẹn hò.
Máu chảy lênh láng ngay trước mặt,
Nước mắt nước mũi đầy hai má.
Vùng sông ngòi thuyền lầu trôi dạt,
Nơi trung nguyên tiếng trống với tù và ai oán.
Hầm ngăn giặc nối liền tới Bạch Địch,
Ngói vỡ vì chiến tranh rớt ngay thềm cung vua.
Nơi thờ các vị vua trước là chốn trang nghiêm và linh thiêng,
Các quan ráng sức theo di mệnh của vua.
Vùng Hằng sơn còn quân đột kỵ,
Nơi Liêu Hải vẫn giăng cờ.
Nhà nông than phiền về cung cấp keo sơn,
Người sống tránh né gai góc.
Vị thủ lãnh gìn giữ được cái thể lớn,
Tướng đầu hàng giả bộ có lời khiêm nhường.
Lệ cống nước Sở năm nào chấm dứt vậy,
Việc phong của vua Nghiêu, một tục xưa bị nghi ngờ.
Cố dụ bọn cướp nơi miền bắc,
Bãi bỏ sự giúp đỡ của dân tộc ít người phía tây.
Chẳng cần lấy cảnh Huyền Phố để đền bù,
Mà thật ra núi Cụ Tì cũng là đủ rồi.
Hết chiến tranh nấu vũ khí đúc dụng cụ làm ruộng,
Giảng đường nên mở mang thư viện.
Kế hoạch nhà nước cao xa khó lường,
Lo trời có thật là ở cái đó.
Vóc dáng thật là thảm hại,
Hãy gắng làm chớ trù trừ.
Sứ giả theo lệnh vua,
Các ông có phép tắc riêng.
Sợ trái với thuế má vừa phải,
Không như việc hỏi đến sự khốn khó.
Vạn dặm dân lo cung cấp,
Nơi thành vắng oán hận vô cùng.
Lục lâm há là cái mối lo nhỏ,
Giấc mơ cõi mây mù khó mà truy cứu.
Việc ngay đây là nên nếm mật,
Dân đen có thể nhận ra đạo tặc ở ngay cạnh khoé mắt.
Nơi hội nghị có cả một bày phượng,
Nhưng nhận định chính là theo vết nứt đầu từ mu rùa.
Nơi nơi hịch truyền vang dội,
Nhà nhà vội vã cầm dùi nhọn.
Xe ông Tiêu Dục đã không giữ được yên,
Sứ giả tới đất Thục để làm gì.
Câu cá ở dòng chảy xiết tức là gìn giữ kinh điển xưa,
Cày ruộng trên núi là chờ đợi đi quân cờ.
Đất nung may có được cái quạt rách,
Đông làm ấm chỉ có chút vải thưa.
Sói mang hại tới còn đau khổ bước lên cao,
Con lân bị thương khiến khóc như ông Trọng Ni.
Nhầm lẫn mà mang áo mũ sang vùng Việt để bán,
Học vẽ và văn thì tới vùng sông Tuy.
Ngắm trăng thấy cây quế mùa thu dài thêm,
Mặt trời nghiêng xua đuổi hoa quỳ còn thấm sương.
Sân lớn cuối cùng trở về với thuần phác,
Kinh quan là do xác chết cứng.
Gối cao cứ vờ ru giấc ngủ ngày,
Bài ca buồn muốn cho ai nghe.
Nam cung nêu công lao,
Dù thế nào cũng cẩn thận cùng lui binh.


(Năm 766)

 

 

Bình luận
Chưa có bình luận nào, bạn có thể gửi bình luận tại đây
Gửi bình luận của bạn tại đây (*):
(Thông tin Email/ĐT sẽ không hiển thị phía người dùng)
*Nhấp vào đây để nhận mã Nhấp vào đây để nhận mã
Bạn có tác phẩm văn học, hãy gửi cho mọi người cùng xem tại đây, chúng tôi luôn hoan nghênh và cảm ơn bạn vì điều này: Gửi tác phẩm
Ngoài ra, bạn cũng có thể gửi lên Lazi nhiều thứ khác nữa Tại đây!
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư