Sông Bạch Đằng là một trong những địa danh lịch sử với những chiến công lẫy lừng của cha ông ta. Đây cũng là con sông được nhắc đến trong thơ ca với niềm tự hào dân tộc sâu sắc. Trong số đó, bài “Phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu là một trong những tác phẩm nổi tiếng thời nhà Trần và cũng là một trong số ít những bài phú xuất sắc nhất của văn học trung đại Việt Nam.
“Phú sông Bạch Đằng” có tên nguyên tác là “Bạch Đằng giang phú”. Tác phẩm này được viết bằng chữ Hán, sau được rất nhiều tác giả khác nhau dịch ra. Bài viết này dựa trên văn bản dịch của giáo sư Bùi Văn Nguyên.
Mở đầu bài phú là là một khung cảnh hùng vĩ, bao la với những Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt và một tâm hồn phóng khoáng, tự do của lữ khách:
Giương buồm giong gió chơi vơi,
Lướt bể chơi trăng mải miết
Nhân vật “khách” ở đây không ai khác mà chính là Trương Hán Siêu. Với một tâm hồn phóng khoáng, nhà thơ hiện lên là một tao nhân mặc khách với bầu rượu túi thơ ngao du đây đó. Vậy mà chí tang bồng vẫn chưa thỏa thích:
Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,
Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết
Thế nhưng, mặc khách đi nhiều, biết nhiều không chỉ đơn giản là để ngắm cảnh tiêu giao mà quan trọng hơn là đi để hiểu thêm về đời, về mình. Khi đến sông Bạch Đằng, mặc khách chính là tìm về nơi cha ông ta đã lập chiến công to lớn để chiêm ngưỡng, ngợi ca và suy ngẫm.
Sông Bạch Đằng trong bài phú trước hết là một con sông với cảnh quan hùng vĩ: Bát ngát sóng kình muôn dặm. Vì rộng “bát ngát” và dài “muôn dặm” cho nên sông Bạch Đằng không chỉ là đại giang mà còn là trường giang với bao lớp sóng cuồn cuộn triều dâng. Thế nhưng, ngoài vẻ đẹp hùng vĩ, sông Bạch Đằng còn hiện lên với vẻ đẹp duyên dáng, thơ mộng: mùa thu nước xanh trong, thuyền trôi dập dềnh trên sông tạo nên một khung cảnh rất đỗi nên thơ.
Cảnh đẹp và thơ mộng nhưng lữ khách ở đây lại cảm thấy buồn vui lẫn lộn. Đây là nơi diễn ra bao trận đánh, chứng kiến ta thắng lợi vẻ vang nhưng cũng là nơi nhìn thấu những hy sinh, mất mát. Nhưng “giáo gãy”, “xương khô”, “trời nước”, “lau lách đìu hiu” như gợi lên nỗi đau buồn, xót thương. Chính vì thế mà người hôm nay không khỏi tiếc thương cho những anh hùng đã khuất:
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu
Tuy có đau buồn nhưng cảm hứng chủ đạo của bài phú là sự ngợi ca chiến công lẫy lừng của cha ông ta trên dòng sông lịch sử này. Chính vì thế, đến đoạn thơ thứ hai, tác giả chuyển sang mượn lời các bô lão – những người đã từng chứng kiến và tham gia trận Bạch Đằng kể lại trận chiến oai hùng này:
“Đây là chiến địa buổi trùng hưng nhị thánh bắt Ô Mã,
Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao”
Thuyền tàu muôn đội,
Tinh kì phấp phới.
Hùng hổ sáu quân,
Giáo gươm sáng chói.
Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,
Bầu trời đất chừ sắp đổi
Chỉ với một đoạn thơ ngắn mà tác giả đã tái hiện được không khí hào hùng của trận đánh với sự đông đảo của lực lượng tham chiến và sự dữ dội của cuộc chiến “thư hùng chưa phân” khiến cho cả trời đất mờ mịt, như sắp đổi dời.
Về phía kẻ địch thì có lực lượng hùng hậu, lại thêm mưu gian kế xảo, “những tưởng tung roi một lần” là có thể “quét sạch Nam Bang bốn cõi”. Thế nhưng, cuộc chiến của quân ta là cuộc chiến chống lại quân xâm lược, là cuộc chiến chính nghĩa, cho nên thuận với lẽ trời, được “trời chiều lòng người”. Lại thêm “trời đất cho nơi hiểm trở” và người lãnh đạo cũng rất mực tài ba. Với chiến thuật, chiến lược đúng đắn, quân dân ta đã chiến thắng vô cùng vẻ vang, khiến cho “nghìn đời ca ngợi”. Chiến thắng trên sông Bạch Đằng năm ấy đã có một ý nghĩa rất to lớn trong sự nghiệp bảo vệ giang sơn của quân dân nhà Trần. Và điều đó càng chứng minh một chân lý:
Những người bất nghĩa tiêu vong,
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh!
Phần cuối bài phú là những lời ngợi ca của các bô lão và lữ khách về dòng sông huyền thoại, về đất nước và con người Việt Nam anh hùng. Tác giả đã dành những lời khen tặng, ngợi ca dành cho những vị anh hùng mà đứng đầu là hai vị vua nhà Trần:
Anh minh hai vị thánh quân,
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh
Hai vị “thánh quân” ở đây là vua Trần Thái Tông và vua Trần Nhân Tông đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông lần thứ 2 và thứ 3. Nhờ những vị vua sáng suốt anh minh, nhờ những thủ lĩnh kiệt xuất cầm binh mà chúng ta đã giành được chiến thắng. Đến đây, tác giả khẳng định:
Giặc tan muôn thuở thanh bình,
Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao.
Điều đó cho thấy, chiến thắng không phải chỉ do thuận lợi về địa thế hiểm trở mà quan trọng nhất là ở con người, ở cái “đức cao” lòng yêu thương con dân, tinh thần đoàn kết của toàn dân tộc. Đó mới chính là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng lầy lừng và vẻ vang nhất.
Có thể nói rằng, “Phú sông Bạch Đằng” là một bài ca yêu nước, tràn đầy tinh thần tự hào dân tộc. Với bố cục chặt chẽ, nhịp điệu thay đổi linh hoạt phóng khoáng, lời văn cô đọng mà dạt dào cảm xúc, bài phú đã khiến người đọc thêm phần tự hào về non sông hùng vĩ và biết ơn sâu sắc thế hệ cha ông đã gìn giữ cho đất nước thanh bình hôm nay. Đó cũng chính là giá trị cao cả nhất, giúp tác phẩm trở thành một trong những bài phú xuất sắc nhất của nền văn học trung đại Việt Nam.