Phân tích phần 1 của tác phẩm “Phú sông Bạch Đằng” – Trương Hán Siêu
Khách có kẻ: Giương buồm giong gió chơi vơi, Lướt bể chơi trăng mải miết. Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương, Chiều lần thăm chừ Vũ huyệt. Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt. Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết. Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều, Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết. Bèn giữa dòng chừ buông chèo, Học Tử Trường chừ thú tiêu dao. Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều, Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều. Bát ngát sóng kình muôn dặm, Thướt tha đuôi trĩ một màu. Nước trời một sắc, phong cảnh: ba thu. Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô. Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu. Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá, Tiếc thay dấu vết luống còn lưu!
Bằng cách nhấp vào Đăng nhập, bạn đồng ý Chính sách bảo mật và Điều khoản sử dụng của chúng tôi. Nếu đây không phải máy tính của bạn, để đảm bảo an toàn, hãy sử dụng Cửa sổ riêng tư (Tab ẩn danh) để đăng nhập (New Private Window / New Incognito Window).
“Phú sông Bạch Đằng” – một bài phú tiêu biểu xuất sắc nhất trong thể phú của văn học Việt Nam thời kì trung đại, qua bài phú, tác giả Trương Hán Siêu không chỉ ca ngợi truyền thống anh hùng kiên cường bất khuất của dân tộc mà còn thể hiện niềm tự hào về cảnh đẹp quê hương đất nước. Tiêu biểu trong đoạn mở đầu của bài phú, tác giả đã ca ngợi vẻ đẹp của con sông Bạch Đằng lịch sử, một địa danh mang ý nghĩa lịch sử to lớn đối với dân tộc.
Vẻ đẹp cảnh sắc thiên nhiên sông nước Bạch Đằng được tác giả tái hiện qua cái nhìn và cảm nhận của nhân vật “khách”, tuy nhiên có thể hiểu kẻ “khách” chính là tác giả, ngay từ những câu đầu tiên:
“Khách có kẻ:
Lướt bể chơi trăng mải miết”
thì tác giả đã cho ta thấy được “khách” là người có tâm hồn tự do, phóng khoáng, thích đi du ngoạn khắp mọi nơi. Nhân vật “khách” đã liệt kê ra những địa danh qua hiểu biết và qua thực tế du ngoạn, sớm chiều rong ruổi thưởng ngoạn, trong đó hàng loạt các địa danh nổi tiếng của Trung Quốc được nhắc đến như: sông Nguyên, sông Tương, Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt, Đầm Vân Mộng.
“Sớm gõ thuyền chừ Nguyên, Tương…
Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều.”
Kẻ khách tự khẳng định rằng “Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết”, như để nói lên vốn hiểu biết sâu rộng và phong phú của mình, hơn thế còn nhắc tới “tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết” như bày tỏ hoài bão lớn lao và sự khoáng đạt trong tâm hồn của mình. Ngoài các địa danh trên nổi tiếng của đất Trung thì “khách” ta đây còn đã từng đến những địa danh trên đất Việt như: cửa Đại Than, bến Đông Triều, sông Bạch Đằng, có thể thấy kẻ “khách” là một người có lòng yêu và thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên say đắm. Bằng lòng yêu thiên nhiên, nhân vật khách đã khắc họa cảnh sắc thiên nhiên sông Bạch Đằng một cách tinh tế, chân thực và sống động, mang nhiều vẻ đẹp khác nhau:
“Đến sông Bạch Đằng thuyền bơi một chiều
……….
Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô”
Sông Bạch Đằng hiện lên với vẻ đẹp hùng vĩ, hiểm trở “sóng kình muôn dặm” nhưng lại không kém phần mĩ lệ, trữ tình “Thướt tha đuôi trĩ một màu”, trên những đợt sóng dữ dội ấy là những đoàn thuyền nối đuôi nhau như đuôi chim trĩ lặng lẽ trôi trên sông vượt qua những đợt sóng kình.
Đất trời và sông nước mang một vẻ đẹp tự nhiên hòa hợp “nước trời: một sắc” bầu trời mặt nước cùng một màu xanh trong, “phong cảnh: ba thu” nghĩa là phong cảnh vào độ chín nhất trong khoảng thời gian tháng thứ ba của mùa thu.
Cảnh sắc đất trời gợi nên một không gian thơ mộng, nhưng cũng có nét đượm buồn bởi hình ảnh bờ lau, bến lách, các từ láy “san sát”, “đìu hiu” đã cực tả sự hoang vắng, đìu hiu và cô quạnh của con sông, những bờ lau trắng nối tiếp nhau trên bờ sông, những bến lách đìu hiu gợi ra cảnh thê lương, tang tóc. Mà chính nơi đây là chiến địa sinh tử, đã biết bao con người ngã xuống, máu nhuốm đỏ cả dòng sông, dưới sông còn nhiều giáo gươm, trên gò còn nhiều xương khô. Những chứng tích đó là minh chứng cho lịch sử hào hùng của dân tộc nhưng cũng khiến cho lòng người không tránh khỏi niềm tiếc thương cho những mất mát, hy sinh.
“Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu…
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”
Trước là sự tự hào vì chiến tích nơi đây thì giờ là nỗi buồn thảm thương lặng người vì sự chết chóc do chiến tranh gây ra, buồn vì giá trị lịch sử cũng theo thời gian mà bị mai một đi, các động từ “buồn, thương, tiếc” góp phần khắc họa rõ tâm trạng ảm đạm, ngậm ngùi khôn nguôi của nhân vật khách trước cảnh sông Bạch Đằng.
Chỉ mới đoạn mở đầu của bài phú, Trương Hán Siêu đã đưa người đọc trải qua nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau, từ niềm tự hào về chiến tích lịch sử vẻ vang của dân tộc đến nỗi buồn thương tiếc nuối vì những giá trị lịch sử đã dần phai mờ, mai một theo thời gian. Qua đó ta càng ý thức hơn về vấn đề bảo vệ và gìn giữ những giá trị lịch sử, khắc ghi công ơn xương máu của thế hệ cha anh đã ngã xuống để giữ vững nền hòa bình độc lập của đất nước Việt Nam như ngày hôm nay.
Kết thúc bài văn mẫu số1 phân tích đoạn 1 Phú sông Bạch Đằng, cùng tham khảo thêm một tài liệu giúp em dễ dàng ghi nhớ hơn để phân tích bài phú này: Sơ đồ tư duy Phú sông Bạch Đằng
Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi
Vui | Buồn | Bình thường |