LH Quảng cáo: lazijsc@gmail.com

Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Bài văn cảm nhận Rừng xà nu

Ai có bài văn cảm nhận RỪNG XÀ NU ko ạ 
cho mình xin với 
3 trả lời
Hỏi chi tiết
75
1
1
Avicii
09/03/2022 21:07:21
+5đ tặng

Nền thơ ca và văn học Cách mạng luôn khiến chúng ta cảm thấy tự hào khi lật giở từng trang truyện, từng bài thơ. Mỗi nhà văn dường như đều tự chọn cho mình một mảnh đất để khai phá, để ngòi bút của mình đắm chìm vào trong văn hóa xứ sở. Ta có Tô Hoài với những tập hồi ký về Tây Bắc, có Nguyễn Thi với những tác phẩm gắn bó với con người Nam Bộ,... thì Nguyễn Trung Thành lại chọn cho mình mảnh đất Tây Nguyên để gieo nguồn cảm hứng. Ở mảnh đất ngập tràn sử thi tráng lệ ấy, Nguyễn Trung Thành đã chắp bút viết lên Rừng xà nu - một tác phẩm mang đậm văn hóa con người Tây Nguyên thời kì kháng chiến chống Mỹ.

Nội dung của tác phẩm là những vấn đề lớn lao, mang nhiều ý nghĩa lịch sử của dân tộc. Đó là hình ảnh của toàn dân tộc đứng lên chống lại kẻ thù xâm lược, những thế hệ anh hùng cứ tiếp nối nhau trên mảnh đất Tây Nguyên. Hình tượng cây xà nu gắn liền với các đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên này, nó là biểu tượng, là hình ảnh tượng trưng tràn đầy sức sống của những con người nơi đây.

Có lẽ vì thế mà mở đầu tác phẩm, Nguyễn Trung Thành đã cho chúng ta thấy một cánh rừng xà nu "hàng vạn cây" ở ngay đầu làng Xô Man. Đây là hình ảnh xuất hiện đầu tiên, cuối cùng và xuyên suốt trong cả tác phẩm. Loài cây gắn bó với con người nơi đây từ sinh hoạt, sản xuất đến kháng chiến chống giặc. Trong sinh hoạt, xà nu trở thành gỗ để giúp dân làng đun nấu, hun khói bảng đen để tập viết chữ, những đuốc lửa xà nu soi sáng những căn nhà, con đường, ... Ngoài ra, cây xà nu còn xuất hiện trong hầu hết các sự kiện quan trọng của làng Xô Man như thắp đuốc để mài vũ khí chống giặc, soi sáng con đường để giết giặc, ...

Thế nhưng, rừng xà nu ấy lại là nơi chịu nhiều bom đạn của kẻ thù nhất bởi làng Xô Man nằm trong tầm ngắm đại bác của địch, và cánh rừng xà nu là tấm lá chắn bảo vệ cho làng. Mỗi ngày ba lần, những loạt đạn đại bác "bắn, đã thành lệ" rơi xuống "ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn". Hình ảnh những cây xà nu đứng chắn ngang trước làng, chịu những tổn thương của bom đạn gây ra "hàng vạn cây không cây nào là không bị thương" khiến người đọc không khỏi nhói lòng. Chúng chịu sự tàn phá nặng nề của bom đạn kẻ thù, ấy vậy mà vẫn hiên ngang "ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng". Những cây xà nu bị thương, "bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão", rồi từng chút "nhựa ứa ra tràn trề", dần dần "bầm lại, đen và đặc quện thành từng cục máu lớn". Đó là những hình ảnh tang thương về sức tàn phá kinh hồn của kẻ thù với những cây xà nu. Mượn hình ảnh đau thương ấy của những thân cây, tác giả muốn nói tới những nỗi đau đớn mà con người phải chịu đựng dưới bom đạn của kẻ thù xâm lược.

Bị tàn phá nặng nề là thế, thế nhưng, cánh rừng xà nu vẫn mỗi ngày một vươn lên mạnh mẽ, với một sức sống vô cùng mãnh liệt "Trong rừng ít có loài cây nào sinh sôi nảy nở khỏe như vậy, cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình mũi tên lao thẳng lên bầu trời". Một cây xà nu ngã gục là một lớp những cây con sẽ mọc lên kế tiếp, mạnh mẽ hơn gấp bội lần. Lớp cây này thay lớp cây khác hay cũng là những lớp thế hệ cách mạng song hành, nối tiếp nhau của làng Xô Man, của Tây Nguyên. Xà nu phải chăng chính là sự tượng trưng cho con người mảnh đất Tây Nguyên này, sức sống của chúng, ý chí của chúng cũng là sức sống, ý chí của con người nơi đây, mạnh mẽ, quyết liệt vô cùng? Trong chiến tranh, dù bom đạn có tàn phá khốc liệt thế nào, có dã man ra sao, chúng vẫn nhất quyết vươn lên, chống trả lại một cách mãnh liệt nhất "đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng"!

Xà nu còn là một loài cây ham ánh sáng, thứ ánh sáng mặt trời trong lành và vàng óng ánh "nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn, thẳng tắp". Những cây xà nu ham ánh nắng để phóng lên mà tận hưởng, để sinh sôi, nảy nở, phát triển. Ánh nắng ấy phải chăng cũng chính là thứ ánh sáng của tự do, của khát vọng sống hạnh phúc? Và những con người Tây Nguyên như những cây xà nu mang trong mình tình yêu tự do mãnh liệt ấy mà phóng lên, bất chấp những khốc liệt, khổ đau.

Hình tượng rừng xà nu xuyên suốt trong tác phẩm, mở đầu bằng hình ảnh những cây xà nu và kết lại là hình ảnh của rừng xà nu nối tiếp nhau đến tận chân trời, bởi nó là tượng trưng cho con người vùng đất Tây Nguyên này. Có thể nói cây xà nu mang trong mình sự cứng cỏi, mạnh mẽ, mang trong mình tình yêu với tự do thì con người Tây Nguyên cũng vậy, cũng mang trong mình khát vọng tự do mạnh mẽ ấy để đương đầu với khốc liệt chiến tranh, của những tàn bạo mà bọn xâm lược đang gây ra.

Tác phẩm Rừng xà nu không chỉ nổi bật hình tượng cây xà nu với sức sống mãnh liệt mà còn nổi bật với các thế hệ anh hùng nối tiếp nhau trong bản làng người dân tộc Strá - làng Xô Man.

Đầu tiên trong thế hệ những con người anh hùng ấy là cụ Mết - một người già làng, một con người Cách mạng đại diện cho lớp người đi trước. Cụ Mết đã hơn sáu mươi tuổi, ở cái tuổi "thất thập cổ lai hy" nhưng vẫn mang một vẻ quắc thước, khỏe khoắn không ngờ "râu bây giờ đã dài tới ngực và vẫn đen bóng, mắt vẫn sáng và xếch ngược". Và hơn thế, cụ còn mang một vết sẹo thật dài ở má phải, cái sẹo vẫn "láng bóng". Đây là những dấu tích của thời gian, dấu tích cho những năm tháng thăng trầm, bồi đắp lên một cụ Mết hôm nay. Cụ Mết là đại diện cho lớp thế hệ người đi theo Cách mạng đầu tiên của làng Xô Man này. Bởi vậy có lẽ khi miêu tả về cụ, Nguyễn Trung Thành đã đặt vào đó cái âm hưởng sử thi hoành tráng của Tây Nguyên với "bàn tay nặng trịch" và "tiếng nói dội vang lồng ngực", "ngực căng như một cây xà nu lớn". Cụ Mết là người đã đi qua hơn nửa đời người, sống gắn bó với núi rừng Tây Nguyên này, cụ hiểu và trân trọng những giá trị văn hóa, những giá trị con người nơi đây. Chính vì thế, cụ là người đi tiên phong trên con đường Cách mạng kháng chiến chống Mỹ. Mỗi câu nói của cụ đều là những chân lý được đúc kết qua bao thăng trầm của thời gian "Đảng còn thì núi nước này còn" hay "chúng nó cầm súng thì mình phải cầm giáo". Đó là những câu nói làm nên con người cụ Mết - một người con anh hùng - cây xà nu già cả, uyên thâm của làng Xô Man nói riêng, của núi rừng Tây Nguyên nói chung. Mang trong mình những phẩm chất cao đẹp của người con dân tộc Strá, của bản làng Xô Man, của núi rừng Tây Nguyên, cụ quả quyết, gan dạ, có tầm nhìn xa khi cụ đã cùng dân làng tích trữ lương thực để chống giặc dài lâu, luôn yêu thương và che chở cho dân làng.

Cụ Mết chính là biểu tượng cho lớp thế hệ đi trước trong kháng chiến chống Mỹ, hội tự những phẩm chất cao đẹp nhất của con người Tây Nguyên và cái âm hưởng sử thi hào hùng nữa.

Lớp thế hệ thứ hai tiếp nối bước chân của cụ Mết là Tnú - người thanh niên cộng sản gan dạ, kiên trung, người lãnh đạo dân làng Xô Man cùng nhau nổi dậy kháng chiến chống lại kẻ thù. Tiếp nối cụ Mết, Tnú cũng mang trong mình những phẩm chất cao đẹp truyền thống của con người nơi đây.

Điều đầu tiên mà ta cảm nhận được ở Tnú đó là sự gan dạ, nhanh nhẹn, tháo vát của một chàng trai miền núi rừng. Ai đọc tác phẩm cũng đều biết rằng, Tnú có một số phận rất đau thương khi mồ côi cha mẹ từ rất sớm, anh lớn lên trong vòng tay yêu thương của những người dân làng Xô Man. Ngay từ nhỏ, anh đã bộc lộ những đức tính cao đẹp của con người nơi đây như gan dạ, dũng cảm, và giác ngộ cách mạng từ rất sớm. Ngay từ khi mới "cao bằng ngang bụng cụ Mết", anh đã đi làm Cách mạng, trở thành người nuôi giấu cán bộ trong rừng thay cho những thanh niên, ông bà già của bản làng khi ấy. Người đọc có thể ấn tượng ngày một đứa bé "đeo cái xà lét nhỏ xíu của mẹ nó để lại, trên bó rau dưới giấu hai lon gạo trắng, nó luồn như một con sóc qua các hốc đá cheo leo, nó chạy lon ton trong rừng đi tìm nuôi anh cán bộ". Ngay từ nhỏ, Tnú đã ý thức được sự quan trọng của Cách mạng và quyết tâm theo Cách mạng mà chẳng hề sợ hy sinh.

Tnú học con chữ để quyết tâm thay anh Quyết làm Cách mạng. Học không được, Tnú"cầm một hòn đá, tự đập vào đầu, máu chảy ròng ròng". Đó là hành động thể hiện chí sự quyết tâm đến cùng của một người chiến sĩ Cách mạng tí hon.

Về học hành, Tnú có thể chậm hơn Mai một chút, thế nhưng, khi băng rừng vượt suối để làm liên lạc cho cán bộ thì "cái đầu nó sáng lạ lùng". Chẳng giống như những người khác thích đi vào những lối mòn, những con đường bằng phẳng, Tnú "không bao giờ đi đường mòn, nó leo lên một cây cao nhìn quanh, nhìn một lượt rồi xé rừng mà đi, lọt tất cả các vòng vây. Qua sông, nó không thích chỗ nước êm, cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang, vượt lên trên mặt nước, cưỡi lên thác băng băng như một con cá kình". Nguyễn Trung Thành đã dựng lên bức tranh về một chú bé giao liên tháo vát, nhanh nhẹn nhất của núi rừng Tây Nguyên này bằng những từ ngữ thật sinh động và chân thực. Người ta như thấy được cái bóng chú bé ấy thấp thoáng qua những lùm cây cao, qua những con suối cao, thác lớn mà vẫn băng băng vượt lên tất cả.

Đến lúc bị địch bắt, Tnú bất ngờ khi "họng súng của giặc phục kích chĩa vào tai lạnh ngắt", ấy thế mà nó vẫn kịp "nuốt luôn cái thư". Đây là cách xử lý nhanh nhất, can đảm nhất, thông minh nhất của người giao liên tí hon ấy! Bị địch bắt, bị giam trong nhà lao, nhưng Tnú vẫn tìm mọi cách để trở về quê hương, trở về bản làng của mình sau ba năm bị giam giữ và tra tấn. Từ đây, anh trở thành người lãnh đạo bản làng của mình đứng lên chống lại lũ quân thù man rợ bằng tất cả ý chí, lòng căm thù sâu sắc nhất của mình. Một mình anh đã lên núi Ngọc Linh, gùi đá về làng, nếu như trước là để lấy phấn viết thì nay, anh đem về những viên đá sắc nhất để cùng dân làng mài giáo mác chuẩn bị đánh giặc. Có thể nói, Tnú là lớp thế hệ kế tiếp cụ Mết với một ý chí càng mạnh mẽ hơn, quyết tâm càng sâu sắc hơn, bộc lộ những phẩm chất cao đẹp của con người nơi đây càng mạnh mẽ hơn.

Bởi thế nên khi chứng kiến cảnh vợ con bị tra tấn, anh đã không thể kìm được mà nhảy xổ vào thằng lính to béo chỉ với đôi bàn tay không. Gan dạ là thế, anh bị địch bắt, bị đốt mười đầu ngón tay bằng lửa xà nu, nhưng không hề có một tiếng kêu van nào vang lên cả "Người Cộng sản không thèm kêu van". Anh Quyết đã từng nói thế và Tnú cũng sẽ nhất quyết không kêu van lũ kẻ thù của mình. Quả là một tinh thần thép, một lòng gan dạ đến vô cùng của người con Tây Nguyên.

Không chỉ là một người chiến sĩ Cách mạng kiên trung, Tnú còn vô cùng gắn bó với quê hương và yêu thương vợ con của mình! Ba năm làm Cách mạng đi xa, thế nhưng ngày trở về, Tnú vẫn nhớ rõ những cái cây, từng con đường cũ vào bản của mình. Anh băng băng trên con đường cũ với một lòng nôn nóng muốn được gặp lại tất cả những người thân yêu của mình trong bản làng ấy.

Anh cũng vô cùng thương yêu vợ con của mình, khi chứng kiến cảnh Mai và con bị tra tấn, anh đã đau đớn đến tột cùng, đứng cạnh cây vả mà "anh bứt hàng chục trái vả mà không hay" rồi nhảy xổ vào tên lính đang tra tấn vợ con anh chỉ bằng đôi tay trần. Lúc đó, có lẽ Tnú chẳng còn một suy nghĩ gì khác trong đầu, chẳng còn nhớ tới vũ khí hay bất cứ gì khác, anh chỉ biết một điều đang hừng hực trong tâm trí là sự quyết tâm cứu sống Mai và con dù có phải hy sinh cả thân mình.

Tnú - người con của núi rừng Tây Nguyên nay, mang trong mình những phẩm chất cao đẹp nhất của những con người nơi đây, là nóng cốt của cuộc kháng chiến chống Mỹ, là thế hệ thứ hai kế bước những truyền thống anh hùng của con người Tây Nguyên, của dân tộc Strá và của bản làng Xô Man. Miêu tả Tnú, Nguyễn Trung Thành cũng không quên thêm vào anh chất sử thi hùng tráng làm nên bản sắc của con người nơi đây.

Thế hệ thứ ba kế tiếp những thế hệ anh hùng nơi đây là Dít - em gái của Mai, vợ của Tnú. Cũng như Mai - chị của mình, Dít là một người con gái giác ngộ Cách mạng từ sớm. Chị đã kế tiếp bước chân của cụ Mết, của Tnú, của Mai, trở thành một cán bộ nòng cốt, thay thế Tnú lãnh đạo bản làng Xô Man này chống giặc. Cũng như Mai, như Tnú, Dít cũng trở thành một cô giao liên băng rừng mà nuôi giấu cán bộ. Đến ngày bị giặc bắt, một đứa trẻ mới mười tuổi như Dít phải chịu trói, chịu đứng giữa trời cho bọn giặc bắn súng dọa. Chúng không bắn thẳng vào Dít mà bắn xung quanh cô, "bắn từ từng từng viên một, không bắn trúng, chỉ bắn sượt qua tai, sém tóc, cày đất quanh hai chân nhỏ của Dít". Nó khóc thét lên khi từng viên đạn sượt qua, đối với một đứa trẻ mười tuổi thì trải nghiệm đó quá sức chịu đựng và thật phi thường. Thế nhưng, "đến viên thứ mười, nó chùi nước mắt, từ đó im bặt", nó đứng yên cho từng viên đạn sượt qua. Có lẽ nỗi sợ hãi của con người ta khi đến một đỉnh điểm, nó sẽ trở thành sự chai lì sẽ khiến cho con người đó trở thành một kẻ không còn sợ hãi cái chết nữa. Và Dít đã được tôi luyện như vậy đấy! Sau này trưởng thành, Dít trở thành bí thư chi bộ xã, chính trị viên xã đội, lãnh đạo dân làng, cùng với dân làng chống giặc ngoại xâm. Dít là đại điện cho lớp thế hệ thứ ba, những người phụ nữ thanh niên ở quê hương tiếp nối nhưng truyền thống anh hùng và những phẩm chất cao đẹp của con người Tây Nguyên.

Thế hệ tiếp nối thứ tư là bé Heng. Thằng bé mới còn nhỏ xíu, ấy thế mà đã trở thành người dẫn đường cho cán bộ và khách vào làng, đi qua những hố chống dày đặc. Heng là lớp cây xà nu con kế tiếp "như những mũi tên phóng thẳng lên bầu trời", hứa hẹn một thế hệ kế tiếp đầy vững chắc. Nếu như rừng xà nu nối tiếp nhau bằng những cây con, ham ánh sáng, phát triển nhanh chóng thì những con người ở đây cũng lớp này thay lớp khác kế tiếp nhau tiếp nối truyền thống đánh giặc anh hùng của cha ông.

Rừng xà nu là câu chuyện về cả một tập thể những con người anh hùng, thế hệ này nối tiếp thế hệ kia của núi rừng Tây Nguyên. Họ bộc lộ sự gan dạ, bộc lộ những phẩm chất anh hùng của mình như gan dạ, dũng cảm và hơn thế là tình yêu quê hương, yêu gia đình, Tổ quốc. Hình tượng rừng xà nu "nối tiếp nhau đến hút tận chân trời" cũng là nói về những con người nơi đây, thế hệ này kế cận thế hệ kia vươn lên mạnh mẽ. Họ là những thân xà nu hừng hực sức sống mãnh liệt, yêu tự do, sẵn sàng vươn lên dù bất cứ hoàn cảnh nào, dù bom rơi đạn nổ ra sao.

Rừng xà nu là tác phẩm đánh dấu sự thành công của tác giả Nguyễn Trung Thanh. Ông đã xây dựng hình ảnh của cả một bản làng người dân tộc thiểu số cùng nhau đứng lên chống giặc với một cảm hứng sử thi bát ngát. Cùng với những biện pháp phóng đại, so sánh, liệt kê, ẩn dụ, ông đã thành công dựng lên hình tượng cây xà nu biểu tượng cho con người Tây Nguyên gan dạ, dũng cảm trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Giọng văn hùng tráng, mang âm hưởng sử thi, ngôn tự giản dị, mộc mạc chính là những điều làm nên sự thành công cho tác phẩm Rừng xà nu.

Tác phẩm khép lại nhưng trong lòng chúng ta vẫn vang vọng mãi giai điệu tự hào. Tự hào về những con người Việt Nam gan dạ, kiên trung trong chiến tranh chống Mỹ cứu nước, yêu hơn quê hương, Tổ quốc của mình. Và một phần trong đó là sự biết ơn những thế hệ đi trước đã dũng cảm hy sinh máu xương để chúng ta có được nền độc lập hôm nay

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
Nguyễn Hoàng Long
09/03/2022 21:07:28
+4đ tặng

Những năm tháng hoạt động ở Tây Nguyên đã cho Nguyên Ngọc – Nguyễn Trung Thành vốn hiểu biết sâu sắc về vùng đất này. Đọc các trang viết của từ Đất nước đứng lên, Rẻo cao đến Rừng xà nu, ta có cảm giác ông là người con của núi rừng Tây Nguyên. Nếu trong Đất nước đứng lên ông chọn anh hùng Núp và dân làng Kông Hoa làm tâm điểm cho câu chuyện thì đến Rừng xà nu ông cũng chọn một địa chỉ xác định: Dân làng Xô man - xứ sở của những cây xà nu làm bối cảnh cho câu chuyện. Cây xà nu và dân làng Xô man như hình với bóng, gắn bó mật thiết. Người Xô man sinh ra dưới bóng xà nu, lớn lên, làm lụng, hò hẹn dưới bóng xà nu, đến lúc qua đời cũng nằm dưới bóng cây thân thuộc ấy. Có thể nói hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn của Nguyễn Trung Thành chính là biểu tượng của con người Xô man.

Nếu chúng ta thống kê đầy đủ thì hình ảnh Xà Nu với những biến thể của đã xuất hiện trong câu chuyện này không dưới hai mươi lần. Với số lần hiện như vậy, hình tượng này đã thấm sâu vào nội dung câu chuyện, thâm nhập đan xen vào đời sống của các nhân vật trong truyện. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở đó không thôi thì cây Xà Nu mới chỉ là một hình ảnh chứ chưa phải là biểu tượng. Muốn biến một hình ảnh thành một biểu tượng, nhà văn cần phải mô tả theo lối tượng trưng hóa. Và Nguyễn Trung Thành đã hoàn thành công việc một cách hoàn hảo.

Nguyễn Trung Thành đã sử dụng rộng rãi thủ pháp nhân cách hóa. Nghĩa là ông đã mô tả cây xà nu như con người. Chúng ta thấy ở đây những “thân hình Xà Nu”, “nhựa Xà Nu như những cục máu lớn”, “rừng xà nu ưỡn tấm ngực của mình ra che chở cho làng”... Nhờ đó mà rừng Xà Nu cũng hiện ra như một nhân vật của câu chuyện. Thực ra lối viết này không phải hoàn toàn mới mẻ. Điều đáng nói hơn là ở chỗ Nguyễn Trung Thành đã biến rừng Xà Nu thành một hệ thống hình ảnh, được mô tả song song với hệ thống hình tượng nhân vật. Rừng Xà Nu hiện ra với ba lứa cây chính: lứa những cây già, lứa những cây trẻ và lứa những cây non. Chúng lại hiện ra với những cảnh ngộ và thân phận tương ứng với con người: có những cây bị phạt ngang thân mình, có những cây mình đầy thương tích, nhưng không bom đạn nào có thể làm cho nó gục ngã, lại có những cây non mới mọc ra nhưng đã đâm lên khỏi mặt đất nhọn hoắt như những mũi lê. Ba lứa cây Xà Nu, ba loại thân phận Xà Nu tương ứng với ba thế hệ người Xô Man được mô tả trong câu chuyện. Trước hết, đó là thế hệ những người già như cụ Mết. Cụ Mết tiêu biểu cho những người già, những người từng trải có sức sống bền bỉ dẻo dai như chính Tây Nguyên kiên cường gan góc. Tiếp theo cụ Mết là thế hệ thanh niên mà tiêu biểu là Tnú, Mai, Dít. Họ là những con người cường tráng, vạm vỡ mang trong mình sức sống mạnh mẽ của làng. Tuổi trẻ của họ đang được thử thách, tôi luyện, dạn dày trong đấu tranh và bom đạn. Nhưng, vượt lên tất cả, họ vẫn kiên cường trụ vững như những cây xà nu, những con chim đại bàng đã đủ lông mao, lông vũ bay thẳng lên bầu trời. Và cuối cùng là thế hệ thiếu niên như thằng bé Heng. Những đứa trẻ này vừa mới sinh ra mà đã cứng cỏi, gan góc, đã tạc mình theo hình ảnh của thế hệ cha anh. Ba thế hệ người Xô Man được mô tả rất tự nhiên tạo nên một hình tượng tập thể, thành một khối đoàn kết, gắn bó, trụ vững từ nghìn đời nay. Nếu ở Rừng Xà nu người ta thấy sức sống của Xà Nu là bất diệt, dòng nhựa Xà Nu được truyền lại nguyên vẹn từ những cây cổ thụ đến những cây non, thì ở những con người Xô Man người ta cũng thấy dòng máu Tây Nguyên cũng được truyền lại trọn vẹn từ lồng ngực những thế hệ già sang trái tim những thế hệ trẻ. Nó giúp cho tác giả Nguyễn Trung Thành khẳng định một chân lý: sức sống của Tây Nguyên là bất diệt Và chân lý ấy đã trở thành triết lý của bản thân câu chuyện này. Nguyễn Trung Thành đã gửi gắm điều đó vào lời nói của cụ Mết. Phải, chi có cụ Mết, chỉ có cây Xà Nu cổ thụ ấy mới có toàn quyền để phát ngôn cho sức mạnh của Xà Nu: “Không cây nào mạnh bằng cây xà nu đất ta. Cây mẹ ngã, cây con mọc lên. Đố nó giết được hết rừng Xà Nu này”. Và khi người Xô Man đã cầm lấy vũ khí nhất tề đứng lên khởi nghĩa, thì cũng được Nguyễn Trung Thành mô tả như sự nổi giận của rừng già, như sự nổi dậy của những cánh rừng Xà Nu: “Suốt đêm nghe cả rừng Xô Man ào ào rung động. Và lửa cháy khắp rừng...”.

Để biến hình tượng Xà Nu thành một biểu tượng nghệ thuật trọn vẹn. Nguyễn Trung Thành còn sử dụng một kết câu rất hợp lí, đó là kết cấu vòng tròn mang tính luân hồi. Câu chuyện mở ra bằng hình ảnh rừng Xà Nu được đặc tả khá kỹ lưỡng và sắc nét. Cuối cùng Nguyễn Trung Thành lại cũng dùng hình ảnh rừng Xà Nu để khép lại câu chuyện. Đây là lối kết câu vừa đóng vừa mở, nó khép lại câu chuyện này để mở ra một câu chuyện khác. Khiến cho người đọc có cảm tưởng rằng đây chỉ là một chương trong lịch sử ngàn đời của người Xô Man, chỉ là một chương trong bản anh hùng ca vô tận của Tây Nguyên. Người Tây Nguyên hôm nay đang viết tiếp bản anh hùng ca muôn thuở của mình. Kỳ tích anh hùng của Tnú chỉ là sự tiếp tục của những gì mà Đăm San và Xing Nhã đã làm thuở xưa. Và nó hứa hẹn rằng những kỳ tích anh hùng ấy còn được viết tiếp bởi những anh hùng trong thế hệ mới của Dít và Heng. Mặt khác người ta thấy với lối kết cấu này, câu chuyện con mở ra cả trong không gian. Sức mạnh quật cường của con người không chỉ bó hẹp ở làng Xô Man mà còn mở rộng ra cả Tây Nguyên, mở rộng ra mãi ra mãi như là sức mạnh của cả dân tộc này: Đứng ở đồi xà nu cạnh con nước lớn, nhìn “đến hút tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp nhau chạy đến chân trời”.

Hình tượng cây xà nu trong tác phẩm của Nguyễn Trung Thành vừa thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng. Đó là một sáng tạo độc đáo của nhà văn - cây xà nu chính là sức sống bất diệt của con người Tây Nguyên và cũng là một hình tượng nghệ thuật bất lử trong văn học kháng chiến chống Mỹ.

Nguyễn Hoàng Long
Chấm điểm giúp mk với nhé
0
0
Lìn
09/03/2022 21:07:42
+2đ tặng

Nguyễn Trung Thành là nhà văn đã từng gắn bó với hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ. “Rừng xà nu” là sự nối tiếp đề tài miền núi trên bối cảnh của thời đại chống Mĩ. Hình tượng cây xà nu là một hình tượng nghệ thuật bao trùm tác phẩm, đã gây ấn tượng sâu đậm tring lòng độc giả về sức sống bất diệt của rừng xà nu. Từ đó, hình tượng này gợi lên rất nhiều suy nghĩ về phẩm chất cao đẹp của đồng bào Tây Nguyên kiên cường , bất khuất.

Khi trở lại miền Nam trong những ngày chống Mỹ ác liệt, Nguyễn Trung Thành đã đặt chân lên khu rừng phía Tây Thừa Thiên và bắt gặp được những cánh rừng xà nu bạt ngạy. Ông đã thực sự say mê vẻ đẹp hùng vĩ, khỏe mạnh của loại cây này. Trước khi viết truyện ngắn “Rừng xà nu” , Nguyễn Trung Thành tâm sự rằng ông đã từng tâm niệm: Dù viết về ai, về chuyện gì, thì tác phẩm phải mang tên “Rừng xà nu” và truyện ngắn này sẽ “bắt đầu bằng một khu rừng xà nu, kết thúc bằng một cánh rừng xà nu xa mờ bất tận”. Lối kết cấu đầu cuối tương ứng hay kết cấu vòng tròn này sẽ tạo nên một âm hưởng sử thi hào hùng. Nó như một cái nền vững chãi để nhà văn triển khai câu chuyện đầy đau thương và anh dũng. Những trang sử bi hùng của dân làng Xô Man lần lượt hiện lên trên cái nền của rừng xà nu kiên cường, bất khuất như phẩm chất tuyệt vời của người dân nơi đây.

Cây xà nu tham dự vào đồi sống vật chất và tinh thần của dân làng Xô Man. “Lửa xà nu cháy giần giật trong mỗi bếp nhà dân làng Xô man, trong đống lửa nhà ưng”. Khi Tnú trở về đơn vị, cụ Mết và Dít tiễn đưa anh “ra đến rừng xà nu gần con nước lớn”. Cây xà nu cũng chứng kiến mọi tâm tình , mỗi bước trưởng thành của dân làng Xô Man bất khuất. Lúc còn nhỏ, Tnú và Mai học chữ trên tấm bảng nứa được xông bằng khói xà nu đen kịt. Cây xà nu lớn bên đường nhắc Tnú nhớ lại ngày gặp Mai lần đầu tiên khi vượt ngục trở về. “Kỉ niệm đó cứa vào lòng anh một nhát dao nứa”. giặc tra tấn Tnú bằng giẻ tẩm nhựa xà nu để đốt mười đầu ngón tay anh. Lửa xà nu đã thử thách sức chịu đựng , lòng trung thành của Tnú với cách mạng. Anh đã cắn nát môi, máu anh mặn chát ở đầu lưỡi để chịu đựng cơn đau vì nhớ đến lời dặn của Anh Quyết: “Người cộng sản không hề kêu van”. Dân làng Xô Man nổi dậy với ánh đuốc xà nu rực sáng khắp rừng trong đêm đồng khởi. Đống lửa lớn nhà ưng soi rõ xác mười tên giặc nằm ngổn ngang,… Qua nghệ thuật miêu tả đặc sắc của nhà văn Nguyễn Trung Thành, người đọc cảm nhận rõ hơn mối quan hệ máu thịt giữa hình tượng cây xà nu với con người dân làng Xô Man.

Khi miêu tả con người , Nguyễn Trung Thành hay ví với cây xà nu. Ngược lại, khi nói về cây xà nu, nhà văn hay dùng hình ảnh, từ ngữ về con người để thể hiện. Cụ Mết ở trần “ngực căng như một cây xà nu lớn”. Cây xà nu bị đạn đại bắc chặt đứt ngang nửa thân mình được nhà văn miêu tả như nỗi đau và sự căm hận của con người. Những vết thương của cây xà nu chóng lành “như trên một thân thể cường tráng”. Rừng xà nu bạt ngàn bao bọc dân làng Xô Man được nahf văn cảm nhận nhưu chúng đang “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng”. Hình tượng cây xà nu vừa mang gái trị tả thực về một loại cây đặc biệt ở núi rừng Tây Nguyên, đồng thời mang ý nghĩa khái quát, biểu tượng cho số phận và phẩm chất của đồng bào Tây Nguyên trong chiến tranh cách mạng.

Rừng xà nu tượng trưng cho những đau thương, mất mát lớn lao và niềm uất hận khôn nguôi của đồng bào Tây Nguyên trong những năm Mĩ – Diệm khủng bố ác liệt. Cánh rừng xà nu được miêu tả ở đầu thiên truyện “nằm trong tâm đại bác của đồn giặc”, ngày nào cũng bị bắn phá hai lần. Quan hình ảnh này, tác giả đã dựng lên bối cảnh cuộc sống dân làng Xô man, một sự sống trong tư thế đối diện với cái chết, một sự sinh tồn đáng đứng trước mối đe dọa của diệt vong. Rừng xà nu phải gánh chịu nhiều đau thương bởi quân thù tàn bao. “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không cây nào là không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ à ào như một trận bão”. Đó là hình ảnh thật về cây xà nu, rừng xà nu hứng chịu bom đạn của kẻ thù, nhưng cũng chính là hình ảnh tượng trưng cho dân làng Xô man bị bọn thằng Dục đàn áp, sát hại đến nỗi “tiếng kêu khóc dậy cả làng”, gợi nhắc cái chết thảm thương của bà Nhan bị “chặt đầu, cột tóc treo đầu súng”, anh Xút bị “treo cổ lê cây vả đầu làng”, Mai và con bị tra tấn bằng trận mưa roi cây sắt cho đến chết. Hình ảnh dòng nhựa xà nu ứa ra từ chỗ vết thương “dần dần bầm lại”, đồng bào Tây Nguyên được cô nén lại thành từng khối, chờ dịp là bùng lên mạnh mẽ thành sức mạnh phản kháng.

Cây xà nu dưới ngòi bút của Nguyễn Trung Thành có sức chịu đựng ghê gớm và sức sống mãnh liệt không gì tàn phá nổi. Nhà văn đã phát hiện “trong rừng ít có loại cây nào sinh sôi nảy nở khỏe như vậy”. Đó là yếu tố cơ bản để rừng xà nu vượt qua ranh giới của sự sống và cái chết mà tồn tại mà vươn lên. Rừng xà nu có sự sinh tồn thật diệu kì. Hàng ngàn, hàng vạn cây xà nu tạo thành các cánh rừng xà nu hùng vĩ “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho dân làng”. Vẻ đẹp cường tráng của cây xà nu, rừng xà nu và cũng chính là biểu tượng tinh thần cho đồng bào Tây Nguyên trong những năm chiến đấu chống Mĩ ác liệt.

Cây xà nu tượng trưng cho các thế hệ con người kế tiếp nhau trưởng thành trong bão táp chiến tranh, kế tiếp nhau đứng lên chống giặc. “Cạnh một cây xà nu mới gục ngã đã có bốn , năm cây con mọc lên, ngon xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời. Chúng vượt lên rất nhanh thay thế cho những cây xà nu đã ngã. Sự sống từng phú, từng giờ sinh sôi, vượt lên cái chết. “Anh Quyết hi sinh thì có Tnú thay thế, Mai ngã xuống thì có Dít lớn lên thay thế chị”.Bên cạnh cụ Mết sừng sứng như một cây xà nu cổ thụ thì là thằng bé Heng là thế hệ mới, lớn lên sẵn sàng kế tục sự nghiệp đánh giặc của cha anh.

Cây xà nu tượng trưng cho khát vọng tự do luôn hướng về cách mạng của Đồng bào Tây Nguyên. Trong rừng, cây xà nu là loại cây ham ánh nắng và khí trời “cũng có ít loại cây ham ánh nắng mặt trời đế thế”, “nó phóng lên rất nhanh để tiếp tục lấy ánh nắng , thứ ánh sáng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp”. Nhà văn đã sử dụng những động từ mạnh như “ham, phóng, tiếp lấy” để thể hiện niềm khao khát sống, kgar năng sống tiềm tàng mãnh liệt, luôn hướng về ánh sáng của cây xà nu. Ngoài nghĩa thực nó còn mang nghĩa tượng trưng cho dân làng khao khát tự do, cho khát vọng hướng về lí tưởng cách mạng của đồng bào Tây Nguyên. Cây xà nu ham ánh nắng và khí trời để phát triển, cũng như người Tây Nguyên tìm đến ánh sáng của Đảng của cách mạng thì mới có cuộc sống tự do và hạnh phúc. Ý nghĩa tượng trưng này đã làm tăng thêm chất thơ, chất lãng mạn và chiều sâu của nhiều tầng ý nghĩa cho hình tượng cây xà nu , rừng xà nu.

Khi miêu tả cánh rừng xà nu đau thương nhưng kiên cường bất khuất, nhà văn viết những câu văn đẹp, gây ấn tượng khó quên trong lòng người đọc. đó là những dòng tả cảnh hiếm có trong văn xuôi chống Mĩ, chúng được tạo khắc thành hình khối, tạo nên hương vị, ánh sáng và sức nóng.

Bằng bút pháp lãng mạn và cảm hứng sử thi hùng tráng, Nguyễn Trung Thành đã xây dựng hình tượng rừng xà nu tượng trưng cho số phận đau thương và phẩm chất anh hùng của dân làng Xô Man nói riêng và nhân dân Tây Nguyên nói chung trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.

2. Cảm nhận về hình tượng cây xà nu - mẫu 2

Nếu trong kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Trung Thành – bút danh Nguyên Ngọc nổi tiếng cùng “Đất nước đứng lên”; thì trong những năm kháng chiến chống Mỹ, đặc biệt là những năm 1965 khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam đang diễn ra gay go ác liệt thì Nguyễn Trung Thành cho ra mắt người đọc truyện ngắn “Rừng xà nu”. Tác phẩm này đã là một bản hùng ca, ca ngợi cuộc sống và con người Tây Nguyên trong cuộc chiến tranh vĩ đại. Và nổi bật hơn cả trong tác phẩm chính là hình tượng cây xà nu.

Cây xà nu là một hình tượng nhân vật trung tâm trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành. Xuyên suốt trong tác phẩm ta bắt gặp những cánh rừng xà nu nối tiếp nhau chạy đến chân trời. Cây xà nu là một loài cây quen thuộc, có mặt trong cuộc sống hàng ngày của người dân Tây Nguyên. “Củi xà nu cháy trong mỗi bếp lửa gia đình, khói xà nu nhuộm bảng đen cho con trẻ học chữ, đuốc xà nu rọi sáng sân nhà Ưng trong những đêm lễ hội…”. Tất cả mọi hoạt động dù lớn dù nhỏ của người dân Tây Nguyên đều có sự góp mặt của cây xà nu. Sự sống của dân làng Xô Man đều gắn liền với những cánh rừng xà nu.

Khi Nguyễn Trung Thành viết : “Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc, chúng nó bắn đã thành lệ, ngày hai lần, hoặc buổi sáng sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng và xẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy. Hầu hết đạn đại bác của đồn giặc đều rơi vào những ngọn đồi xà nu, cạnh con nước lớn”, nhà văn đã phản ảnh không khí căng thẳng của thời đại, gợi lên sự đối mặt quyết liệt giữa sự sống và cái chết. Nổi bật trên nền bối cảnh ấy, Nguyễn Trung Thành đã đi sâu miêu tả những đặc điểm nổi bật của câu xà nu. Cũng như bao loài cây khác, cây xà nu là một loài cây ham ánh sáng và khí trời “trong rừng ít có loài cây nào sinh sôi nảy nở khoẻ đến vậy… ít có loài cây nào ham ánh sáng đến thế” cũng có nghĩa là ham sống, khao khát muốn được vươn lên giữa bầu trời cao rộng.

Thế nhưng trong những năm tháng chiến tranh ác liệt ấy, cũng như bao cánh rừng khác của Việt Nam, rừng xà nu đã bị tàn phá rất dữ dội “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào là không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình đổ ào ào như một trận bão; ở chỗ vết thương nhựa ứa ra tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt rồi dần dần bầm lại đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn”. Tuy vậy, bất chấp mọi sự tàn phá huỷ diệt của chiến tranh, cây xà nu vẫn vươn lên với một sức sống mãnh liệt “cạnh cây mới ngã gục đã có bốn, năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Tư thế vươn lên mạnh mẽ ấy của cây xà nu như để thách thức với bom đạn của chiến tranh “đố chúng nó giết được cây xà nu đất ta”. Sức sống mãnh liệt đã giúp những cánh rừng xà nu vươn lên trong một màu xanh, hiện lên hiên ngang, kiêu dũng như một tráng sĩ “cứ thế hai ba năm sau, rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho dân làng Xô man”.

Bằng nghệ thuật so sánh, nhân hoá, ẩn dụ, Nguyễn Trung Thành đã dựng lên thật thành công và rõ nét, ấn tượng về hình tượng cây xà nu. Không dừng lại ở đó, Nguyễn Trung Thành còn đặt hình tượng cây xà nu vào trong quan hệ đối chiếu sóng đôi với con người mảnh đất Tây Nguyên. Nếu cây xà nu là một loại cây ham ánh sáng và khí trời, thì người dân Tây Nguyên yêu tự do, tin vào Đảng, đi theo bước chân cách mạng như muôn cây vẫn hướng vào ánh sáng mặt trời. Nếu cây xà nu bị tàn phá, huỷ diệt bởi đạn bom, khói lửa thì những người dân Tây Nguyên phải chịu bao đau thương mất mát do chính kẻ thù gây ra. Bao nhiêu người bị giặc giết chết như những cây xà nu bị chặt đứt ngang nửa thân mình, bao nhiêu người còn sống mà phải mang trong mình bao nỗi thương đau. Bằng cách miêu tả hình ảnh cây và người trong quan hệ sóng đôi như thế, Nguyễn Trung Thành đã khắc sâu tội ác dã man của kẻ thù để qua đó tác giả giúp ta hình dung rõ hơn những thảm cảnh dân ta phải chịu do bọn giặc gây ra.

Cũng giống như những cánh rừng quê hương, như những con người Việt Nam vẫn ý thức được rằng:

“Gươm nào chia được dòng Bến Hải
Lửa nào thiêu được dãy Trường Sơn
Căm hờn lại giục căm hờn
Máu kêu trả máu đầu van trả đầu”

Các thế hệ nhân dân Tây Nguyên đã thay nhau tiếp nối đứng lên. ánh sáng của niềm tin “Đảng còn thì núi nước này còn” đã soi đường chỉ lối cho những bước chân đến với cách mạng. Thế hệ này ngã xuống, thế hệ sau tiếp nối đứng lên; anh Sút bà Nhan bị giặc giết, đi thay họ tiếp tế nuôi quân đã có TNú và Mai. Cứ như thế, các thế hệ người Tây Nguyên đã thay nhau giữ vững ngọn lửa truyền thống, thay nhau giữ vững ý chí đánh giặc kiên cường, để giữ làng, giữ nước của dân làng Xô man nói riêng và của người Tây Nguyên nói chung.

Dưới ngòi bút miêu tả của Nguyễn Trung Thành, cây xà nu hiện lên sừng sững, đồng hành với những bước đi, cuộc sống của dân làng Xô man. Gắn bó với cánh rừng anh dũng, kiêu hùng, những người dân Tây Nguyên như được tiếp thêm sức mạnh để đứng lên chiến đấu. Và gắn bó với con người Tây Nguyên ân tình, thuỷ chung, trung dũng như thế. Cây xà nu cũng luôn luôn sánh bước cùng họ để họ có cuộc sống bình yên hơn; để “hầu hết đạn đại bác của đồn giặc đều rơi vào những ngọn đồi xà nu, cạnh con nước lớn” chứ không nhằm vào những người dân vô tội lầm than.

Cây xà nu là hình tượng mang đậm chất lý tưởng, tiêu biểu cho phẩm chất, số phận của người dân Tây Nguyên. Hình tượng cây xà nu trong tác phẩm mang đậm chất sử thi, tính hào hùng, nó làm rõ chủ đề tư tưởng của truyện ngắn “Rừng xà nu”. Để xây dựng một hình tượng xà nu như thế, Nguyễn Trung Thành đã sử dụng những câu văn miêu tả, những từ ngữ, hình ảnh chọn lọc đặc sắc, cùng nghệ thuật so sánh, nhân hoá, ẩn dụ, giọng văn miêu tả trong tác phẩm rất linh hoạt.

Có đọc “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành ta mới cảm nhận hết vẻ đẹp hình tượng cây xà nu. Hình tượng này đã góp phần tạo nên một “Rừng xà nu” trọn vẹn, mang đậm giá trị văn học. Nguyễn Trung Thành đã góp phần làm phong phú thêm cho nền văn học dân tộc.

3. Cảm nhận về hình tượng cây xà nu - mẫu 3

Những năm tháng hoạt động ở Tây Nguyên đã cho Nguyên Ngọc – Nguyễn Trung Thành vốn hiểu biết sâu sắc về vùng đất này. Đọc các trang viết của từ Đất nước đứng lên, Rẻo cao đến Rừng xà nu, ta có cảm giác ông là người con của núi rừng Tây Nguyên. Nếu trong Đất nước đứng lên ông chọn anh hùng Núp và dân làng Kông Hoa làm tâm điểm cho câu chuyện thì đến Rừng xà nu ông cũng chọn một địa chỉ xác định: Dân làng Xô man - xứ sở của những cây xà nu làm bối cảnh cho câu chuyện. Cây xà nu và dân làng Xô man như hình với bóng, gắn bó mật thiết. Người Xô man sinh ra dưới bóng xà nu, lớn lên, làm lụng, hò hẹn dưới bóng xà nu, đến lúc qua đời cũng nằm dưới bóng cây thân thuộc ấy. Có thể nói hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn của Nguyễn Trung Thành chính là biểu tượng của con người Xô man.

Nếu chúng ta thống kê đầy đủ thì hình ảnh Xà Nu với những biến thể của đã xuất hiện trong câu chuyện này không dưới hai mươi lần. Với số lần hiện như vậy, hình tượng này đã thấm sâu vào nội dung câu chuyện, thâm nhập đan xen vào đời sống của các nhân vật trong truyện. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở đó không thôi thì cây Xà Nu mới chỉ là một hình ảnh chứ chưa phải là biểu tượng. Muốn biến một hình ảnh thành một biểu tượng, nhà văn cần phải mô tả theo lối tượng trưng hóa. Và Nguyễn Trung Thành đã hoàn thành công việc một cách hoàn hảo.

Nguyễn Trung Thành đã sử dụng rộng rãi thủ pháp nhân cách hóa. Nghĩa là ông đã mô tả cây xà nu như con người. Chúng ta thấy ở đây những “thân hình Xà Nu”, “nhựa Xà Nu như những cục máu lớn”, “rừng xà nu ưỡn tấm ngực của mình ra che chở cho làng”... Nhờ đó mà rừng Xà Nu cũng hiện ra như một nhân vật của câu chuyện. Thực ra lối viết này không phải hoàn toàn mới mẻ. Điều đáng nói hơn là ở chỗ Nguyễn Trung Thành đã biến rừng Xà Nu thành một hệ thống hình ảnh, được mô tả song song với hệ thống hình tượng nhân vật. Rừng Xà Nu hiện ra với ba lứa cây chính: lứa những cây già, lứa những cây trẻ và lứa những cây non. Chúng lại hiện ra với những cảnh ngộ và thân phận tương ứng với con người: có những cây bị phạt ngang thân mình, có những cây mình đầy thương tích, nhưng không bom đạn nào có thể làm cho nó gục ngã, lại có những cây non mới mọc ra nhưng đã đâm lên khỏi mặt đất nhọn hoắt như những mũi lê. Ba lứa cây Xà Nu, ba loại thân phận Xà Nu tương ứng với ba thế hệ người Xô Man được mô tả trong câu chuyện. Trước hết, đó là thế hệ những người già như cụ Mết. Cụ Mết tiêu biểu cho những người già, những người từng trải có sức sống bền bỉ dẻo dai như chính Tây Nguyên kiên cường gan góc. Tiếp theo cụ Mết là thế hệ thanh niên mà tiêu biểu là Tnú, Mai, Dít. Họ là những con người cường tráng, vạm vỡ mang trong mình sức sống mạnh mẽ của làng. Tuổi trẻ của họ đang được thử thách, tôi luyện, dạn dày trong đấu tranh và bom đạn. Nhưng, vượt lên tất cả, họ vẫn kiên cường trụ vững như những cây xà nu, những con chim đại bàng đã đủ lông mao, lông vũ bay thẳng lên bầu trời. Và cuối cùng là thế hệ thiếu niên như thằng bé Heng. Những đứa trẻ này vừa mới sinh ra mà đã cứng cỏi, gan góc, đã tạc mình theo hình ảnh của thế hệ cha anh. Ba thế hệ người Xô Man được mô tả rất tự nhiên tạo nên một hình tượng tập thể, thành một khối đoàn kết, gắn bó, trụ vững từ nghìn đời nay. Nếu ở Rừng Xà nu người ta thấy sức sống của Xà Nu là bất diệt, dòng nhựa Xà Nu được truyền lại nguyên vẹn từ những cây cổ thụ đến những cây non, thì ở những con người Xô Man người ta cũng thấy dòng máu Tây Nguyên cũng được truyền lại trọn vẹn từ lồng ngực những thế hệ già sang trái tim những thế hệ trẻ. Nó giúp cho tác giả Nguyễn Trung Thành khẳng định một chân lý: sức sống của Tây Nguyên là bất diệt Và chân lý ấy đã trở thành triết lý của bản thân câu chuyện này. Nguyễn Trung Thành đã gửi gắm điều đó vào lời nói của cụ Mết. Phải, chi có cụ Mết, chỉ có cây Xà Nu cổ thụ ấy mới có toàn quyền để phát ngôn cho sức mạnh của Xà Nu: “Không cây nào mạnh bằng cây xà nu đất ta. Cây mẹ ngã, cây con mọc lên. Đố nó giết được hết rừng Xà Nu này”. Và khi người Xô Man đã cầm lấy vũ khí nhất tề đứng lên khởi nghĩa, thì cũng được Nguyễn Trung Thành mô tả như sự nổi giận của rừng già, như sự nổi dậy của những cánh rừng Xà Nu: “Suốt đêm nghe cả rừng Xô Man ào ào rung động. Và lửa cháy khắp rừng...”.

Để biến hình tượng Xà Nu thành một biểu tượng nghệ thuật trọn vẹn. Nguyễn Trung Thành còn sử dụng một kết câu rất hợp lí, đó là kết cấu vòng tròn mang tính luân hồi. Câu chuyện mở ra bằng hình ảnh rừng Xà Nu được đặc tả khá kỹ lưỡng và sắc nét. Cuối cùng Nguyễn Trung Thành lại cũng dùng hình ảnh rừng Xà Nu để khép lại câu chuyện. Đây là lối kết câu vừa đóng vừa mở, nó khép lại câu chuyện này để mở ra một câu chuyện khác. Khiến cho người đọc có cảm tưởng rằng đây chỉ là một chương trong lịch sử ngàn đời của người Xô Man, chỉ là một chương trong bản anh hùng ca vô tận của Tây Nguyên. Người Tây Nguyên hôm nay đang viết tiếp bản anh hùng ca muôn thuở của mình. Kỳ tích anh hùng của Tnú chỉ là sự tiếp tục của những gì mà Đăm San và Xing Nhã đã làm thuở xưa. Và nó hứa hẹn rằng những kỳ tích anh hùng ấy còn được viết tiếp bởi những anh hùng trong thế hệ mới của Dít và Heng. Mặt khác người ta thấy với lối kết cấu này, câu chuyện con mở ra cả trong không gian. Sức mạnh quật cường của con người không chỉ bó hẹp ở làng Xô Man mà còn mở rộng ra cả Tây Nguyên, mở rộng ra mãi ra mãi như là sức mạnh của cả dân tộc này: Đứng ở đồi xà nu cạnh con nước lớn, nhìn “đến hút tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp nhau chạy đến chân trời”.

Hình tượng cây xà nu trong tác phẩm của Nguyễn Trung Thành vừa thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng. Đó là một sáng tạo độc đáo của nhà văn - cây xà nu chính là sức sống bất diệt của con người Tây Nguyên và cũng là một hình tượng nghệ thuật bất lử trong văn học kháng chiến chống Mỹ.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư