Đội Cấn tên thật là Trịnh Văn Cấn, là người lãnh đạo cuộc binh biến chống lại chính quyền thực dân Pháp tại Thái Nguyên vào năm 1917. Sinh ra trong một gia đình có hoàn cảnh nghèo khó, năm 1910, ông đăng lính khố xanh thay cho người anh trai với cái tên là Trịnh Văn Cấn, sau đó được thăng lên chức đội lính khố xanh trong cơ binh Pháp đóng tại Thái Nguyên, cũng chính vì thế mà ông được gọi với biệt danh là Đội Cấn.
Mặc dù tham gia quân đội Pháp, nhưng Đội Cấn là người chịu ảnh hưởng của tinh thần yêu nước và chống thực dân Pháp của nghĩa quân Đề Thám. Thời gian hoạt động ở Thái Nguyên, ông có làm quen và kết bạn với nhiều đồng ngũ người Việt tại đây như Ba Chén, Đội Giá, Đội Trường... thường ban nhau về việc khởi nghĩa, nổi dậy chống chính quyền thực dân Pháp tại Thái Nguyên.
Giữa năm 1917, Một thành viên của Việt Nam Quang phục Hội tên là Lương Ngọc Quyến bị bắt giữ và bị đưa đến nhà lao Thái Nguyên với múc án là "Chung thân cấm cố". Tại đây, Đội Cấn cùng những người bạn đồng chí đã có cuộc tiếp xúc với Lương Ngọc Quyến, đã được cổ vũ thêm tinh thần yêu nước và chống chính quyền Pháp, cũng như hướng dẫn các biện pháp tổ chức binh biến lật đổ chính quyền Pháp.
Vào đêm ngày 30 rạng sáng ngày 31 tháng 8 năm 1917, Khởi nghĩa Thái Nguyên chính thức bùng nổ. Các bính linh quân Việt đã giết chết tên giám binh người Pháp là Noël, phá nhà tù Thái Nguyên, thả tự do cho 230 tù nhân. Đội Cấn được bổ nhiệm là Tư lệnh Trưởng, Lương Ngọc Quyến là Quân sư. Sau đó, nghĩa quân đã triệu tập dân chúng ở Thái Nguyên, tuyên bố Thái Nguyên đã độc lập, đặt quốc hiệu là Đại Hùng Đế quốc, đưa ra Tuyên Ngôn và Lời gọi gọi quần chúng để trả thù. Số quân lính khởi nghĩa lên tới 600 người, gồm quần chúng, bính lính khố xanh và tù nhân, sử dụng quân kỳ màu vàng có 4 chữ "Nam binh phục quốc", góc trên bên trái có 5 ngôi sao đỏ (ngũ tinh liên châu).
Đội Cấn cùng các chiến hữu đã làm chủ Thái Nguyên trong 5 ngày. Buổi sáng ngày 05/09/1917, chính quyền Pháp đã điều 2000 quân lên Thái Nguyên đàn áp. Ngay từ những phút đầu, Lương Ngọc Quyến đã bị tử thương vì trúng mảnh đạn pháo. Do lực lượng chênh lệch quá lớn nên nghĩa quân Việt đành phải rút lui ra ngoài thị xã ngay trong đêm, rút về vùng Tam Đảo ở Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc.
Đội Cấn và nghĩa quân chỉ cầm cự được hơn 5 tháng. Đến ngày 11/1/1918 thì nghĩa quân bị tổn thất nặng nề khi đang phản kích quân Pháp tấn công lên căn cứ tại Núi Pháo. Không chịu nhục để quân Pháp bắt, Đội Cấn đã tự sát