Ba lần kháng chiến quân xâm lược Mông Nguyên xâm lược là lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam ta dưới thời nhà Trần.
Kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên là cuộc kháng chiến nào?Cuộc chiến Mông – Nguyên – Đại – Việt hay cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên (tên gọi ở Việt Nam) là cuộc chiến bảo vệ quê hương đất nước của quân và dân Đại – Việt vào đầu thời Trần dưới thời Trần Thái Tông và các vua Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông trước sự tấn công của đế quốc Mông Cổ và nhà Nguyên.
Cuộc kháng chiến chống quân Mông Cổ lần thứ nhất (1258) nối với vua Trần Thái Tông. Cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai (1285), gắn liền với vua Trần Nhân Tông. Cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ ba (1288), gắn liền với vua Trần Nhân Tông.
Tìm hiểu diễn biến ba lần kháng chiến chông quân xâm lược Mông NguyênTiếp theo nội dung bài viết nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên, chúng ta cùng xem diễn biến của cuộc kháng chiến này như thế nào nhé.
– Kháng chiến chông quân xâm lược Mông Nguyên lần thứ nhấtTháng 1 năm 1258, Ngột Lương Hợp Thai dẫn 3 vạn quân Mông Cổ tràn sang nước ta. Họ men theo sông Thao tiến về Bạch Hạc (Phú Thọ). Sau đó đến vùng Bình Lệ Nguyên (Vĩnh Phúc) và bị dừng lại trên đường do vua Trần Thái Tông chỉ huy chặn lại. Trước thế giặc mạnh, vua Trần hạ lệnh rút quân từ kinh thành Thăng Long về Thiên Trường (Hà Nam). Đồng thời bắt đầu thực hiện kế hoạch đã đề ra là “vườn không nhà trống”.
Tiếp đó, Nhà Trần mở cuộc phản công lớn ở Đông Bộ Đầu, Hà Nội. Ngày 29 tháng 1 năm 1258, quân Mông Cổ lập tức rời kinh thành Thăng Long, rút vào trong nước, cũng theo con đường ven sông Hồng. Lần xuất quân đầu tiên của Mông Nguyên kết thúc thắng lợi.
– Kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên lần thứ haiTháng giêng năm 1285, Thoát Hoan đưa 5 vạn quân vào nước ta. Với ưu thế về quân số, quân Nguyên liên tiếp đánh bại quân Việt trên các mặt trận Lạng Sơn, Sơn Động, Vạn Kiếp, Thu Vật, sông Đuống. Quân ta rút theo sông Hồng về Vạn Kiếp, Thăng Long và cuối cùng là Thiên Trường (Nam Định).
Cùng lúc đó, Toa Đô dẫn quân từ Chiêm Thành tiến đánh Nghệ An – Thanh Hóa. Bị ép trước ép sau, vua Trần phải rút quân ra biển Quảng Ninh. Cho đến khi quân Nam Nguyên qua Thanh Hóa. Quân của Thoát Hoan mở cuộc tấn công ở phía nam để tiêu diệt quân ta, nhưng không thành công. Họ phải rút về Thăng Long và tiếp tục thiếu lương thực trầm trọng.
Tháng 5 năm 1285 khi nghĩa quân rút vào Thanh Hóa bị suy yếu, nhà Trần tổ chức phản công. Lần lượt quân Đại Việt đại thắng ở cửa Hàm Tử (Hưng Yên), bến Chương Dương (Hà Nội), giải phóng Thăng Long. Đường rút lui bị đánh phá ở sông Cầu, Vạn Kiếp, Vĩnh Bình, quân nam bị tiêu diệt hoàn toàn ở Tây Kết (Khoái Châu), quân giặc nhiều lần bị giết, số còn lại bỏ chạy về quê. Toa Đô bị chém đầu, Thoát Hoan phải về nước và cuộc kháng chiến chống quân Mông Cổ lần thứ hai toàn thắng.
– Kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần thứ baTháng 12 năm 1287, quân Nguyên lại tấn công Đại Việt. Chia làm ba cánh quân Nguyên xâm lược nước ta từ Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông bằng đường biển vào Đại Việt.
Vì thiếu lương thực và nguy cơ chia cắt, quân Nguyên bỏ Thăng Long rút về Vạn Kiếp. Sau đó chúng chủ động rút lui trước khi quân ta kháng cự. Tuy nhiên, khi chúng rút lui thì bị quân ta phục kích. Quân Nguyên đã bị quét sạch hoàn toàn ở sông Bạch Đằng khi chúng tìm cách rút lui ra biển.
Các đại đội bộ binh của quân Nguyên đi qua Bắc Giang, Lạng Sơn đều bị quân ta phục kích, tập kích nặng. Kết quả của cuộc Kháng chiến chống quân xâm lược Mông Cổ lần thứ ba: địch lại bị thất bại nặng nề.
– Về nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông NguyênThứ nhất: Được sự nhất trí của vua tôi của nhà Trần, được các tầng lớp nhân dân tích cực ủng hộ và tham gia kháng chiến.
Khi quân Mông Cổ chuẩn bị tấn công nước ta theo lệnh của vua Trần, cả nước thu phục vũ khí. Các đội dân quân định cư, ngày đêm luyện tập võ nghệ, sẵn sàng đánh địch, khi địch đánh phá, nhân dân ba lần thực hiện theo chủ trương “vườn không nhà trống”, gây cho địch nhiều khó khăn, khủng bố.
Thứ hai: Sự chuẩn bị chu đáo của nhà Trần, ý chí quyết tâm đánh giặc của toàn quân và dân ta. Điều này đã được thể hiện rất rõ tại hội nghị Diên Hồng. Cha mẹ già quyết tâm “quyết chiến”, binh đao đều khắc hai chữ “ Sát Thát ” trên tay.
Vua tôi nhà Trần quyết tâm đánh giặc. Nhà vua chỉ thẳng tay vào kẻ thù, các triều thần quyết tâm đánh giặc. Trần Thủ Độ nói: “Đầu trời không rơi xuống sàn, xin ông đừng lo”. Trần Quốc Tuấn nói: “Muốn đầu hàng giặc thì chém đầu ta trước rồi hãy đầu hàng”. Các vị vua, danh tướng thời Trần, điển hình là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.
Thứ ba: Đường lối chiến thuật đúng đắn và sáng tạo.
Mặc dù quân địch tấn công nước ta bằng nhiều cách khác nhau, nhưng lúc đầu chúng vẫn gây áp lực cho ta. của nhà Trần, cụ thể là Hưng Đạo Vương. Các chính sách và chiến lược đánh địch rất hợp lý. Bằng chứng đáng kể nhất là trận sông Bạch Đằng dẹp giặc.
– Về ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống quân Mông NguyênĐánh tan quân xâm lược Mông Cổ hung hãn, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc.
Nâng cao lòng tự hào dân tộc. Khẳng định lại lòng yêu nước và ý chí quyết tâm bảo vệ tổ quốc.
Góp phần tô thắm thêm truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của quân đội ta. một bài học vô giá đó là phải biết kiên trì sức dân mới tạo nên sức mạnh bền lâu. Ngăn chặn nhà Nguyên xâm lược các vùng đất khác.
Bài viết trên chúng ta có thể biết được nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên. Hy vọng rằng bạn đọc sẽ có thêm nhiều kiến thức về lịch sử dân tộc ta.