LH Quảng cáo: lazijsc@gmail.com

Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phân tích vẻ đẹp tuổi thơ trong thơ Phạm Hổ

Phân tích vẻ đẹp tuổi thơ trong thơ Phạm Hổ
 
4 trả lời
Hỏi chi tiết
3.575
2
1
Tr Hải
15/06/2022 08:19:51
+5đ tặng
MỞ ĐẦU Lý chọn đề tài 1.1 Lý khách quan “Nếu sống lần nữa, xin viết cho em, hạnh phúc đời tôi” Đó lời phát biểu nhà thơ Phạm Hổ người mà suốt đời không ngừng, không nghỉ, trăn trở tìm tòi sáng tác cho em Phạm Hổ sáng tác nhiều thể loại: thơ, kịch, truyện dài, truyện ngắn, truyện vừa, truyện cổ tích, lý luận phê bình Văn học…Ông đóng góp cho Văn học thiếu nhi nước nhà nhiều tác phẩm có giá trị: khoảng 20 tập thơ, tập truyện, kịch, tập truyện cổ tích mới…Ở thể loại nào, Phạm Hổ để lại ấn tượng sâu sắc lòng độc giả Thơ văn Phạm Hổ viết cho em thường ngộ nghĩnh, vui tươi, dễ hiểu, dễ nhớ, giàu tưởng tượng, phù hợp với tâm lý trẻ thơ Đặc biệt, thơ ông viết cho em mang đậm phong vị hồn nhiên, trẻo, nhạc điệu vui tươi câu đồng dao dân gian có sức tác động mạnh mẽ đến tâm hồn, tình cảm hình thành nhân cách trẻ thơ Về phương diện này, thân Phạm Hổ cho thơ viết cho thiếu nhi phải vui tươi, hấp dẫn Muốn vậy, nghệ thuật thơ phải có biến hoá nhạc điệu, ngôn ngữ, màu sắc hình tượng Theo thống kê thơ dành cho trẻ mẫu giáo tuyển tập thơ, truyện, hát, câu đố, ca dao lứa tuổi mẫu giáo bé, nhỡ, lớn ta thấy có 10 thơ Phạm Hổ là: Xe chữa cháy, Rong Cá, Thỏ mặt trăng, Đàn gà con, Bắp cải xanh, Cô dạy, Gà nở, Mẹ đố bé, Đàn kiến đi, Chú cảnh sát giao thông Trong thơ: Thỏ mặt trăng, Bắp cải xanh xuất hai lần Điều phần khẳng định vai trò to lớn thơ Phạm Hổ việc bồi đắp tâm hồn cho mầm non đất Qua đề tài này, mong muốn khai thác sâu phương diện nghệ thuật thơ Phạm Hổ viết cho thiếu nhi đồng thời thấy nét đặc sắc phong cách Phạm Hổ qua tác phẩm tiêu biểu ông 1.2 Lý sư phạm Trẻ mầm non tiếp xúc nhiều với thơ thông qua tiết học “Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học” Thơ có sức lôi kỳ diệu tác động mạnh tới tâm hồn, tình cảm, nhân cách trẻ thơ Bởi lẽ lứa tuổi nhỏ, em giàu tình cảm, dễ yêu, dễ ghét, dễ khóc, dễ cười Trẻ nhỏ đến với thơ cách tự nhiên đến với Sớm cho trẻ tiếp xúc với thơ ca từ nằm lòng mẹ điều nên làm, thơ ca nguồn dinh dưỡng tâm hồn trẻ thơ nhiều mặt phát triển ngôn ngữ, giáo dục đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ, tư duy… Là giáo viên mần non tương lai, đặc biệt mong muốn tác động đến niềm yêu thích thơ ca trẻ nhỏ, từ bồi dưỡng tâm hồn sáng lực cảm thụ thơ ca em thông qua sáng tác Phạm Hổ Vì vậy, chọn nghiên cứu đề tài: “ Đặc sắc phương diện nghệ thuật thơ Phạm Hổ viết cho thiếu nhi”, không lý nêu mà thể lòng khâm phục, kính trọng tác giả luận văn hồn thơ nhiều hệ yêu mến Lịch sử nghiên cứu vấn đề Phạm Hổ nhận nhiều giải thưởng thi sáng tác cho thiếu nhi như: Tặng thưởng loại A năm 1960 cho tác phẩm “Chú Vịt bông”, giải A Hội đông Văn học thiếu nhi – Hội nhà văn Việt Nam trao tặng cho tác phẩm “Những người bạn im lặng”, giải thưởng Nhà nước Văn học thiếu nhi đợt năm 2001 Sự thành công ông có lẽ phần lớn nhờ vào “nghệ thuật hoá thân vào trẻ thơ”, có người nhận xét:“Phạm Hổ tìm chìa khoá mở cửa tâm hồn trẻ thơ, giáo dục trẻ thơ đường tình cảm nhẹ nhàng mà hiệu lực” Do có nhà nghiên cứu đánh giá nghệ thuật thơ Phạm Hổ hình thành qua cách “nhìn người, nhìn sống bụi bặm…bằng mắt ngơ ngác trẻ thơ” Trong viết “Mười lăm năm thơ cho thiếu nhi” [2, 35] nhà thơ Định Hải đưa nhận định: “Thơ Phạm Hổ nặng khai thác khía cạnh tình cảm nhi đồng, thơ anh uyển chuyển, giàu nhạc điệu, gần gũi với đồng dao Bạn đọc thường nhắc đến thơ anh như: Xe cứu hoả, Tre, Bắp cải xanh, Chú bò tìm bạn…” Nhà nghiên cứu Nguyên Xuân Nam đồng tình với ý kiến mở rộng thêm: “Phạm Hổ làm cho em nhìn vào hế giới thân quen có điều lạ từ rút nhiều điều suy nghĩ…Với mùi thơm hoa trái, với tiếng ậm Chú bò tìm bạn, thơ Phạm Hổ đưa em giới thức Và đưa người lớn màu sắc, cảm xúc tươi mát từ lâu bị quên lần nhớ lại lòng không khỏi chút bâng khuâng nhớ tiếc” [8, 47] Khi nhận xét tập thơ “Từ không đến muời”, Nhà Phê Bình Vũ Ngọc Bình khẳng định: “Tiếp theo Chú bò tìm bạn, Bạn vườn, Phạm Hổ phát huy sở trường quen thuộc vài nét bút, vẽ nên tranh khiêm tốn kích thước mà có sức khơi gợi, giúp em với mắt tạo hình tuổi thơ vô số hình hoạ sống” Cùng với quan điểm trên, nhà thơ Phạm Đình Ân ghi nhận: “Nhà thơ Phạm Hổ dành đời viết cho em Thơ ông nghiêng quan sát chi tiết tỉ mỉ, tinh tế với cách biểu đạt ngộ nghĩnh, giàu nhân ái” [15, 38] Từ thực tiễn nghiên cứu trên, nhận thấy: Các sáng tác thơ Phạm Hổ viết cho thiếu nhi nhi ều nhà nghiên cứu quan tâm, ý, đặc biệt nhấn mạnh đến phương thức biểu đạt độc đáo thơ ông Tuy nhiên lại chưa có nghiên cứu sâu tìm hiểu cách hệ thống phương diện nghệ thuật đặc sắc thơ Phạm Hổ viết cho thếu nhi Đó gợi ý để sâu nghiên cứu đề tài ý kiến nhà nghiên cứu trước định hướng quý báu giúp khai triển luận văn Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu nét đặc sắc phương diện nghệ thuật thơ Phạm Hổ viết cho thiếu nhi qua khẳng định đóng góp to lớn ông phát triển Văn học thiếu nhi Việt Nam Phạm vi nghiên cứu Để thực đề tài: “Đặc sắc phương diện nghệ thuật thơ Phạm Hổ viết cho thiếu nhi”, tập trung khảo sát toàn sáng tác thơ Phạm Hổ viết cho em gồm tập: Chú bò tìm bạn, Những người bạn im lặng, Từ không đến mười, Đỗ trắng đỗ đen, Cháu chọn hạt Phương pháp nghiên cứu Phương pháp khảo sát, thống kê Phương pháp phân tích Phương pháp so sánh NỘI DUNG Chương PHẠM HỔ – NHÀ THƠ CỦA TRẺ EM 1.1.Tiểu sử đường hoạt động nghệ thuật nhà thơ Phạm Hổ Suốt gần nửa kỷ cầm bút viết cho thiếu nhi, nhà thơ Phạm Hổ tâm sự: “Nếu sống thêm lần nữa, chọn nghề cũ: làm thơ, viết văn cho em đọc, vẽ tranh cho em xem Tôi thường lấy lòng yêu mến em, lấy công việc làm cho em làm thước đo lòng dân với nước…” Và ông thực nêu gương đời mình, trang viết kết tinh toàn tài tâm hồn ông Phạm Hổ đến với độc giả nhỏ tuổi nhiều thể loại: thơ, truyện kịch, kịch phim hoạt hình số tiểu luận, phê bình, kinh nghiệm sáng tác văn học cho thiếu nhi…góp phần vào hình thành phát triển nên văn học thiếu nhi Việt Nam Qua trang viết Phạm Hổ, người đọc thấy thấm đẫm tình yêu đằm thắm mà ông dành cho độc giả nhỏ tuổi Chính mà qua nhiều kỉ, sáng tác Phạm Hổ em đón nhận cách hào hứng, trở thành hành trang theo em khôn lớn vào đời Trong số bút viết cho thiếu nhi, Phạm Hổ nhà văn em yêu quý trân trọng Những tình cảm yêu quý em phần thưởng lớn Phạm Hổ – nhà thơ tuổi thơ Phạm Hổ sinh ngày (28/11/1926) xã Nhơn An, huyện An Nhơn,tỉnh Bình Định gia đình nhà Nho có truyền thống văn học Ngay từ nhỏ, Phạm Hổ có điều kiện đọc sách cổ tích, đồng dao, Sách hồng, Truyền bá…Lớn lên, ông lại nhà thơ Cách Mạng Trần Mai Ninh hoạ sĩ Nguyễn Đỗ Cung dìu dắt Đặc biệt người anh trai ông Phạm Văn Ký có ảnh hưởng lớn tới thiên hướng văn chương ông Năm Phạm Hổ học lớp 3, ông Phạm Văn Ký đạt giải thi thơ viết tiếng Pháp tổ chức cho nước thuộc địa Pháp Và từ đây, Phạm Hổ rời quê Huế với anh trai Ông Ký dạy cho Phạm Hổ cách đọc sách, cách sáng tác văn học… Quê hương Quy Nhơn nơi có nhiều danh lam thắng cảnh Những cảnh đẹp quê hương tạo nguồn cảm hứng cho Phạm Hổ nhiều trang viết ông Đây mảnh đất giàu truyền thống yêu nước, nơi nuôi dưỡng nhiều nhà thơ, nhà văn tiếng như: Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên… Tất yếu tố với sở trường niềm đam mê thúc Phạm Hổ đến với sáng tác nghệ thuật… Năm 1943, ông đỗ thành chung chưa kịp thi tú tài Cách Mạng Tháng Tám nổ ra, ông theo Cách Mạng hoạt động văn nghệ từ Năm 1955, ông tập kết Bắc, thành viên sáng lập Nhà xuất Kim Đồng Ông sáng tác nhiều thể loại, cho người lớn trẻ em nói tới Phạm Hổ, trước hết phải nói đến đóng góp to lớn ông Văn học thiếu nhi nước nhà Ông nhận nhiều giải thưởng Văn học thiếu nhi giải thưởng nhà nước Văn học thiếu nhi Tác phẩm ông giới thiệu nươc Nga, Trung Quốc, Pháp, Đức… Vô xúc động, bước vào tuổi 80, giường bệnh với đau dội, nhà thơ sáng tác để tặng thiếu nhi, tặng cho đời vần thơ chất chứa yêu thương khát vọng sống: “Núi sinh để cao Biển sinh để rộng Sông sinh để dài Hoa sinh để đẹp Con người để yêu thương Không gian có để vô tận Thời gian có dể nghĩ suy Trái đất sống Ngày đêm Con người nâng trái đất lên tay Mồ hôi, tiếng hát nên nên nhà (Ý nghĩ đầu xuân) Đó vần thơ chất lọc qua bao năm tháng, giàu triết lý màvẫn đôn hậu yêu thương, tiếng thơ cuối Phạm Hổ trước ông vào cõi vĩnh Đọc vần thơ này, ta cảm thấy kính trọng ông hơn, trân trọng sống mình, sống xung quanh Xin mượn lời nhà nghiên cứu để nói đời nhà thơ: “Người nghệ sĩ chân sáng tạo để kiếm sống mà trước hết yêu cầu thúc bên trong.” [14, 98] Nội lực bên Phạm Hổ ánh mắt thân yêu em thơ, nụ cười rạng rỡ cháu mẫu giáo, trưởng thành cuả thiếu nhi chúng sống, học tập, đọc thơ quê hương với bạn bè, thầy cô giáo người thân yêu Chúng lớn lên để trở thành chủ nhân tương lai đất nước Đáp lại lòng ấy, ngày nay, học Tiếng Việt, Văn học cấp học, tủ sách gia đình, nhà trường, em nhỏ tiếp tục trở với vần thơ ông Đọc rồi, tưởng tượng, lớn hơn, chăm ngoan hơn, hiểu biết xã hội Đây lời tri ân mà lớp lớp hệ độc giả dành cho Phạm Hổ, cho nhiều nhà thơ cống hiến trọn đời cho Văn học thiếu nhi Việt Nam 1.2 Quan điểm nhà thơ Phạm Hổ với việc viết cho thiếu nhi Trước bàn vào thơ, thiết nghĩ cần nói đôi điều quan điểm làm thơ cho em Phạm Hổ: Không thuộc vào tuýp người thích tuyên ngôn dó ông có phát biểu thơ cho lứa tuổi nhi đồng Có thể quan sát điều qua thơ thêm suy nghĩ việc làm thơ cho nhi đồng ông Khác với nhiều người, Phạm Hổ chọn đường vào giới tâm hồn trẻ thơ Ông tâm niệm: “Đối với tôi, viết cho em hạnh phúc” Rất nhiều lần, ông pháp biểu Tinh thần đó, lần ta lại bắt gặp “Nhưng thơ nho nhỏ” – thơ có tính chất tâm tình chuyện lập ngôn: “Suốt đời mơ Được viết cho em Những thơ nho nhỏ” hay “Thật đơn sơ hạnh phúc ? Được viết cho em Những thơ nho nhỏ” Không phải ngẫu nhiên mà Phạm Hổ lại mơ ước viết nên thơ nho nhỏ Quy mô phù hợp với tầm đón nhận em Nhưng lứa tuổi ưa thích đa dạng, lạ nên thơ phải bi xanh, đỏ, quýt, na…, vừa gần gũi mà vừa hấp dẫn Mỗi thơ cho em phải “những ô cửa xinh xinh” mở ô trời xanh để em “đón hương lúa thơm tiếng hót chim trời” Sứ mệnh thơ cho lứa tuổi nhi đồng, theo Phạm Hổ mang lại cho em niềm vui thật Trong Viết cho em nhân dân Đảng đăng tạp chí văn học số năm 1981, nhà thơ Phạm Hổ có lời nhận xét chân thành: “Đối với công việc nghĩa vụ mà hạnh phúc, sung sướng viết trân trọng nhất, yêu quý nhất, đẹp, lý tưởng suốt đời mình” Lời bộc lộ chân tình nhà thơ điều hoàn toàn xác thực mà thấy hiểu Phạm Hổ dành gần trọn đời suốt hành trình văn học cho em Những tinh tuý, tâm huyết đời với thăng hoa cảm xúc ông chắt lọc gửi gắm trang văn, thơ cho em thiếu nhi Chính vậy, sáng tác cuả Phạm Hổ em nhỏ yêu quý trân trọng Nhiều thơ Phạm Hổ em nhỏ lưu giữ trí nhớ trở thành hành trang cho em suốt đời Thơ văn Phạm Hổ chọn lọc đưa vào giảng dạy lớp mẫu giáo có thơ: Cô giáo, Xe chữa cháy, Chơi ú tim, Bắp cải, Sen nở, Chùm thơ gà trứng, Tâm mũi, Vì sao, Thỏ mặt trăng… Ở cấp tiểu học có bài: Em yêu tổ quốc Việt Nam, Chú bò tìm bạn, Đàn gà nở, Sầu riêng… Ông có 50 đầu sách sáng tác cho thiếu nhi với nhiều giải thưởng Hội đồng thiếu nhi Việt Nam, Hội nghệ sĩ sân khấu, Trung ương đoàn tặng… Sự vất vả cực nhọc nghề cuối kết tinh thành “những đứa tinh thần” tạo nên niềm vui cho nhà thơ Cả đời Phạm Hổ yêu thương với tình yêu đằm thắm mà ông dành trọn cho hệ trẻ Dường ông sống với niềm mong ước: tác phẩm đem đến cho tâm hồn em đẹp quý, chân thiện… Có lần Phạm Hổ tâm “ Tôi làm thơ cho em muốn góp thêm cho em thứ đồ chơi viên bi, cánh diều hay chí thứ đồ chơi điện tử đó” [9, 93] Đây ý thức cao, trách nhiệm lớn người cầm bút Làm thơ cho em mong đem đến giá trị tinh thần cho trẻ Mỗi thơ, đơn giản thứ đồ chơi lại đồ chơi mang lại niềm vui cho trẻ thơ Theo Phạm Hổ, trách nhiệm nhìn tưởng đơn giản để làm nhà văn gặp phải không khó khăn: “Đi không kỹ, nắm không chắc, dù có viết kỹ, có công phu đến phô bày kỹ thuật Nhưng kỹ mà không xúc động sâu sắc, chân thành viết nhạt nhẽo” [8, 35] Để vượt qua yêu cầu đó, nhà văn cần có xúc động sâu sắc chân thành Vì mục đích cuối Văn học thiếu nhi nói chung thơ thiếu nhi nói riêng là: “ Các em đọc thấy thích phần tiếp thu em, người lớn đọc có chuyện để suy ngẫm, [10, 74] Tât quan niệm Phạm Hổ xuyên thấm sáng tác ông Khi trực tiếp, gián tiếp, lại tình yêu trẻ vô bờ, tinh thần trách nhiệm cao, ý thức muốn mang lại nhiều niềm vui cho em Cuối cùng, Phạm Hổ nhận thấy rằng: Cần tìm thiên nhiên lấy thiên nhiên làm chất liệu sáng tác cho thiếu nhi Ông cho rằng, thiên nhiên thân đẹp: “Bằng đẹp, thiên nhiên dạy cho ta biết yêu đẹp Bằng phong phú, thiên nhiên gợi cho ta nên có sống phong phú tinh thần vật chất vật chất” Phạm Hổ cho rằng: Trước viết cho em, nhà thơ phải bầu bạn em, phải hiểu tâm tư, suy nghĩ tình cảm chúng Ông tâm sự: “Tôi đặc biệt ý đến tình bạn đời sống người” [5, 40] 10 2.3.2 Hình thức mô Mong muốn cuối Phạm Hổ làm thơ cho em thơ thật, sống, đời, diễn xung quanh sống Chính vậy, thơ Phạm Hổ thường mô âm thanh, nhịp điệu đời Đó mô âm thanh, hình dáng vật, tượng…Mô để em hình dung rõ đối tượng nói đến thơ Để tạo ấn tượng đó, Phạm Hổ thường mô tiếng kêu vật mô tả, tạo không khí vui tươi, rộn rã, ví dụ: Bài thơ Tàu dài với nhịp hai, mô nhịp chạy đều đoàn tàu kéo nhiều toa: Hai toa – Ba toa – Bốn toa – Bé đếm – Đếm – Tàu – Trôi qua – Bé đếm đếm – Đầu tàu – Đã xa – Đuôi tàu – Rồng rắn – Toa tàu – Núi toa – Kìa gạo – Kìa đạn – Ghé mắt – Nhìn qua Trong Xe chữa cháy, tiếng còi xe “ Tí te…Tí te”, “ Có… ngay! Có… ngay” xe chữa cháy nhà thơ cảm nhận thành tiếng sẵn sàng ứng biến Bằng cách đó, hình ảnh xe chữa cháy đến với trẻ thơ không với hình dáng, màu sắc mà tiếng nói nó: Mình đỏ lửa Tôi chạy bay Nhà bốc lửa Tôi dập liền tay Ai gọi chữa cháy Có…ngay! Có… ngay!” (Xe chữa cháy) Bài thơ mang đến cho trẻ hình ảnh xe cứu hoả màu đỏ, xe đầy nước, lúc sẵn tư sẵn sàng Chỉ cần nghe thông tin đâu có cháy, xe có mặt kịp thời 31 Trong máy khâu, tiếng máy kêu “xạch, xạch, xạch” mô thành lời gieo vui em bé đón chờ quần áo mẹ may cho mình: “Sắp song rồi, song rồi!” Còn Ấm chảo, Phạm Hổ miêu tả âm ấm nước chảo mỡ sôi cách ấn tượng: “Ấm quen reo o! “Nước sôi ạ!” Chảo quen kêu xèo! xèo! Mỡ mỡ nóng quá” (ấm chảo) Tác giả không dẫn dắt thiếu nhi vào khám phá, tìm hiểu giới âm vật, đồ vật mà em lý giải ý nghĩa âm Trong Mưa, nhà thơ sử dụng thể thơ hai chữ kết hợp với nhiều từ láy tượng để gợi lên tiếng mưa rơi chanh chách: “Mưa Mưa Hạt Đã dến Hạt Đang rơi Chanh chánh Chanh chánh Mát mát Êm êm” Bài Khi vào đêm, âm mô tinh tế gợi lên từ trái tim, từ tình yêu sống Trong không gian tưởng im lặng 32 nghe thấy ca ếch nhái, giọt sương đêm khe khẽ cựa mình: “Những dế kéo đàn rỉ rả Ếch nhái đồng ca hối … Cả đồng quê sau ngày vất vả Đang lặng im nghe hát đêm” (Khi vào đêm) Âm trẻo tiếng dế, ếch nhái hình ảnh đồng quê yên bình Chỉ đôi ba nét chấm phá có chọn lọc, với âm ấn tượng, Phạm Hổ làm cho hình ảnh làng quê Việt Nam thật nên thơ gợi cảm Phạm Hổ có thơ sử dụng từ tượng để mô âm thực tế loài vật miêu tả: “Gâu! Gâu! Gâu! chó hỏi It ! Út ! Ịt ! lợn đòi Meo! Meo! Meo! mèo trách Be ! Be ! Be ! dê cười” Có thể nói, âm thực tế khách quan vào thơ Phạm Hổ biến hoá sinh động hợp lý Mô âm trở thành đặc điểm tiêu biểu phương diện nghệ thuật thơ Phạm Hổ Các em nhỏ đến với thơ ông hình dung đối tượng miêu tả cách rõ nét Phạm Hổ em đón nhận nhờ không khí vui tươi tràn ngập nhiều loại âm 2.3.3 Hình thức trích dẫn 33 Trong thơ Phạm Hổ sử dụng nhiều hình thức khác như: hỏi đáp, giải thích…và hình thức ông thể tốt hình thức trích dẫn Thơ Phạm Hổ cách tân nghệ thuật Ông coi trọng tìm tòi, sáng tạo Bên cạnh hình thức đối thoại, mô phỏng, Phạm Hổ ý đến hình thức trích dẫn để tăng tính chân thực cho thơ “Sáo mẹ cuống cuồng Cành đa khóc réo “Quạ giết Ai đến cứu!” Đây rôi chèo bẻo Vút đến tên Đuổi quạ đen Đánh cho trận Nhà sáo thoát nạn Cánh đa hót mừng “Cám ơn chèo bẻo Cám ơn ! Cám ơn !” Những câu thơ trích dẫn lời nói dã cụ thể hoá cảm xúc hành động nhân vật em nhỏ bắt gặp hình thức trích dẫn thấy thú vị hơn, biết rõ đối tượng nhắc tới Còn lời nói mẹ nhà mèo đang tranh luận ánh sáng bóng điện Việc nhà thơ trích dẫn lời nói hai mẹ mèo thơ thể sinh động tính cách mèo mèo mẹ: “Mèo nhìn bóng điện Hỏi mèo mẹ: “Mẹ ơi, Đèn không thắp, 34 Sao thấy sáng ngời” Mèo mẹ nghĩ hồi Đáp liều: “Con dốt thật Ngọn đền sáng Là thằn lằn” Thắp lên để kiếm ăn Con nhìn đấy” (Mèo bóng điện) 2.4 Các biện pháp tu từ khác Trong văn chương nhà thơ thương sử dụng nhiều biện pháp tu từ như: lặp, so sánh, nhân, ẩn hóa, ẩn dụ…nhằm thể rõ ý đồ nghệ thuật đồng thời làm cho câu văn, câu thơ mượt mà, gần gũi, sinh động dễ hiểu với người đọc Các nhà thơ viết cho thiếu nhi sử dụng nhiều biện pháp nhân hóa, so sánh, dấu chấm lửng…tạo nên không gian riêng lại gần với giới trẻ thơ Bởi lẽ em ưa lạ, hấp dẫn không thích lặp lặp lại, rập khuân, em thường ham thích ngộ nghĩnh, kỳ thú đơn điệu, nhàm chán Do linh loạt, sôi biến động dường trở thành nhu cầu sống tâm hồn trẻ em Thơ ca tiếng nói tâm hồn, tiếng nói mượt mà, gần gũi giàu hình ảnh, giàu hình ảnh, giàu cảm xúc sử dụng biện pháp tu từ Phạm Hổ hiểu rõ đặc điểm tâm lý khả nhận thức em nên thơ ông thường sử dụng nhiều biện pháp tu từ Trong khuôn khổ cho phép, khóa luận tập trung nghiên cứu biện pháp chính: phép lặp, phép nhân hóa, phép so sánh 2.4.1 Biện pháp lặp 35 Trong thơ Phạm Hổ, số thơ sử dụng hình thức trùng điệp nhiều Bởi lẽ, để đáp ứng thị hiếu trẻ cần tạo nhịp điệu thơ hấp dẫn, ấn tượng mạnh mẽ Phạm Hổ tạo ấn tượng riêng ông kết hợp yếu tố Các em nhỏ thích thú Phạm Hổ miêu tả chân biện pháp lặp: “Chân vịt hình mái chèo Chân tàu hình chong chóng Chân xe bánh lăn tròn Chân bàn im đứng thẳng Suốt đời im đứng thẳng” (Chân) Nhờ sử dụng biện pháp lặp, dù miêu tả chân, Phạm Hổ để em mở rộng hiểu biết có so sánh loại chân với nhau, Cuối cùng, nhà thơ em có kết luận: chân đứng thẳng vững chân giá trị Còn đây, hình ảnh nước lặp lại theo nhiều góc độ khác nhau: “Nước lên, xuống: biển Nước nằm im: ao, hồ ! Nước chảy xuôi: sông suối ! Nước rơi trời mưa !” (Nước) Phạm Hổ miêu tả nhiều hơn, nhìn vạn vật nhiều chiều thơ ông sử dụng yếu tố lặp Một chân, nhiều chân, giọt nước, ao hồ, sông suối chứa nước, cây, cỏ, đồi, gió, lửa…đều đứng cạnh nhau, bổ sung cho nhau: 36 “Ngọn lửa đèn lay động Ngọn núi đứng lặng im Ngọn gió không ngừng chạy Ngọn cao thêm Vút lên trời cao thêm” (Ngọn) Đọc vần thơ Phạm Hổ, mặt, em nhỏ rộng hiểu thêm đối tượng nói đến thơ Mặt khác, em mở rộng vốn từ sau thơ Từ đó, em yêu quý thơ ông, yêu quý tiếng mẹ đẻ hơn, có ý thức giữ gìn chúng 2.4.2 Biện pháp nhân hoá Thế giới nghệ thuật thơ Phạm Hổ vô đa dạng phong phú Ông viết nhiều cỏ cây, hoa lá, đồ vật, vật Những điều đáng nói qua nhìn Phạm Hổ, tất vạn vật xung quanh trở nên sống động, có hồn bầu bạn trẻ Đó hành động cảm xúc Chú bò tìm bạn, Chú bê đòi bú, Rong cá, Chú chó mèo chơi trốn tìm…Hay Gấu đen chụp ảnh, lười học ngỗng, chăm vịt, lao động cần mẫm người bạn ồn ào, im lặng như: bạn chổi, rế, bàn là, đinh, dây phơi…và cối muốn phục vụ người…Tất hội tụ lại bên em nhỏ không phân biệt giống, loài: “Gấu đen chụp ảnh Gửi tặng bạn thân Gấu trắng thợ giỏi “Tách” chụp xong” (Gấu đen) 37 Sở thích gấu đen thích chụp ảnh để gửi tặng bạn thân nên nhờ thỏ trắng Tự lúc nào, thỏ trắng trở thành thợ giỏi Cả hai thích thú bên ảnh vừa chụp xong Còn cảm xúc ngỡ ngàng, ngơ ngẩn thỏ quay phim Một thỏ thông minh ngây thơ giống em bé lần xem hình ảnh qua ống kính: “Thỏ quay phim Hôm thấy Múa ảnh Thỏ ngơ ngẩn Quay hỏi bạn – Mình vơi thỏ kià – Thỏ thật nhỉ” (Thỏ quay phim) Những người bạn đồ vật Phạm Hổ nhân hoá để chúng có đức tính, cảm xúc người: chăm chỉ, cần mẫn, thông minh mang lợi ích đến cho người Đó Chổi đỏm dáng, thích làm duyên, chổi múa dạo vòng nhà cửa ngay: “Thích buộc nhiều thắt lưng Cả đời không di dép Chổi múa dạo vòng Rác nhà biến (Chổi) Con qua tuổi thơ lại chẳng thấy bóng qua Ngủ rồi: “Gà mẹ hỏi gà Đã ngủ chưa 38 Cả đàn gà nhao nhao Ngủ ạ” (Ngủ rồi) Những gà mà em hay ngắm nhìn hang ngày, nhà thơ Phạm Hổ viết vào thơ ngộ nghĩnh quá, chúng giống em, ngoan ngoãn, lễ phép với người lớn, hỏi đáp Còn Đinh vui vẻ, tươi cười hạnh phúc sau hoàn thành nhiệm vụ: “Chôn vao cột Chôn vào tường Cho chị treo gương Cho em treo ảnh Xong hóm hỉnh Đinh ta tươi tỉnh Nhô đầu nhìn quanh (Đinh) Không quên ngưòi bạn cối, Phạm Hổ chúng trò chuyện với em, nhắc nhở em học bài: “Sân vừa trồng Cây giồng đàn trẻ Nhìn bé, vẫy mời: “Học xong, chơi nhe!” (Sân cây) Không vô lý có lần ông nói diễn đàn quốc tế: “Nhiệm vụ thơ dạy người yêu người ” Ông thực nhiệm vụ mang tới cho em câu chuyện cảm động hai chị em nhà bướm: 39 “Chị Hoa hồng lại khóc Không phải đâu em Đấy hạt ngọc Người gọi sương Sao đêm gửi xuống Tặng cô hoa hồng” (Bướm em hỏi chị) Nghệ thuật nhân hóa biến cánh bướm thành người biết yêu thương quan tâm tới bạn bè Bằng nhìn kỳ thú yêu thương cách khai thác nghệ thuật sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa độc đáo, nhà thơ làm cho em nhìn vào giới thân quen có điều lạ, thật không sai nói nhân hóa biện pháp nghệ thuật bao trùm thơ Phạm Hổ 2.4.3 Biện pháp so sánh Đối với trẻ thơ, so sánh để làm bật đối tượng cần nói đến thơ điều cần thiết So sánh gần gũi em dễ dàng cảm thụ hình tượng nói đến Song song với việc sử dụng nhân hóa, thơ viết cho em, Phạm Hổ sử dụng hình ảnh so sánh ví von độc đáo tạo nên cách tri giác mẻ, hoàn chỉnh đối tượng hình ảnh ngày trở nên phong phú, đậm nét Đọc Rong cá bạn đọc xem vũ kịch với màu sắc động tác nhịp nhàng hai nhân vật đặc biệt Thân rong xanh đuôi cá đỏ xuất sân khấu từ từ kéo lên thời gian không định trước “Có cô rong xanh Đẹp tơ nhuộm 40 Giữa hồ nước Nhẹ nhàng uốn lượn Một đàn cá nhỏ Đuôi đỏ lụa hồng Quanh cô rong đẹp Múa làm văn công” Cô rong xanh không nhà thơ Phạm Hổ ví cô văn công mà nhà thơ so sánh “Đẹp tơ nhuộm” Đó vẻ đẹp màu sắc non xanh, mát dáng hình mềm mại thả trôi theo dòng nước Còn cá nhỏ với đuôi màu sắc rực rỡ ví dải lụa hồng Không sử dụng từ so sánh cách so sánh chìm gợi cho người đọc thấy màu sắc đường nét uốn lượn chúng Chính tình yêu nhạy cảm trước thiên nhiên giúp Phạm Hổ vẽ lên họa xinh đẹp Chiếc bàn nhà thơ so sánh xe lu: “Tôi xe lu Là quần áo thật phẳng (Chiếc xe lu) Với xe cứu hoả, Phạm Hổ miêu tả bé xông xáo, khẩn trương dũng cảm: “Mình đỏ lửa Bụng chứa nước đầy Tớ chạy bay Hét vang đường phố” (Xe cứu hoả) Màu đỏ thân xe ví màu lửa, màu đỏ rực, nóng bỏng đặc trưng cho công việc, màu nhiệt tình Chiếc xe chữa cháy to lớn tưởng chường nặng nề với bụng đầy nước có 41 nhiệm vụ lại thật nhanh nhẹn nổ, Điều diễn đạt hiệu qua hình ảnh so sánh “chạy bay” Bốn dòng thơ với hai lần sử dụng biện pháp tu từ Phạm Hổ diễn tả tình cảm, cảm xúc trước thiên nhiên, với ánh nhìn trẻ thơ Nhờ biết cách biến thứ quen thuộc dễ dàng lãng quên thành người đáng quý, đáng yêu giới trẻ thơ Đến độ bóng Đôi que đan so sánh hình ảnh ấn tượng: “Que tre đan Bóng ngọc ngà” (Đôi que đan) Một Rế lại ví đài hoa: “Ôm lấy nồi lấy chảo Rế đài hoa” (Rế) Đặc biêt, thơ nho nhỏ – (“Lời tạm biệt tác giả, gửi đến bạn đọc nhỏ tuổi thân yêu”), Phạm Hổ có ví von chân thành xúc động tâm huyết ông dành cho em suốt đời làm thơ mình: Suốt đời mơ Được làm cho em Những thơ nho nhỏ Như bi xanh đỏ Như quýt, cam em tay bóc vỏ, miệng cười Như gà chạy nhảy lon ton bên mẹ, 42 Các em đặt lên tay, vuốt ve bồng bé, Như ô cửa xinh xinh mở bốn phía Đón hương lúa thơm tiếng hát chim trời… (Những thơ nho nhỏ) Đó hình ảnh so sánh vừa gần gũi, đơn sơ lại vừa thiêng liêng cao bên niềm mơ ước suốt đời nhà thơ với bên điều giản dị nhất, tình cảm mà ông muốn đem lại cho trẻ thơ Đối với Phạm Hổ, không vui hơn, hạnh phúc làm thơ cho em, dành tặng cho chúng đồ chơi mà chúng thích, để môi em nhoẻn cười…Đó niềm mơ ước, khát khao người suốt đời sáng tác cho thiếu nhi Tấm lòng thật đáng trân trọng, đáng quý 43 KẾT LUẬN Văn học thiếu nhi Việt Nam hình thành phát triển từ sau Cách Mạng tháng Tám – 1945 Đây phận văn học quan trọng phát triển văn học Việt Nam, góp phần giáo dục hệ trẻ Với thúc đẩy nhu cầu xã hội, đội ngũ nhà văn sáng tác văn học thiếu nhi ngày đông đảo Qua giai đoạn lịch sử có nhà văn công hiến nhiều cho văn học thiếu nhi như: Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng, Phạm Hổ, Đoàn Giỏi, Võ Quảng… Phạm Hổ số tác giả tiêu biểu Ông người đặt móng cho văn học thiếu nhi Việt Nam Trong nửa kỷ viết cho em, kể từ tác phẩm ông viết kháng chiến chống Pháp như: Em vẽ Bác Hồ, Em tre… tác phẩm sau như: Chú bò tìm bạn, Chú vịt bông, Những người bạn im lặng, Bạn vườn…Phạm Hổ nhà thơ có sức viết không ngừng nghỉ Các tác phẩm ông có sức sống lòng độc giả nhiều hệ Không phủ nhận niềm đam mê cháy bỏng khát khao cống hiến tất tâm hồn trí tuệ cho trẻ thơ tạo nên sức sống bền bỉ, lâu dài cho trang thơ Phạm Hổ Qua đó, không kể đến dụng công nhà thơ việc phối kết hợp nhiều hình thức nghệ thuật khác Trước hết nhà thơ tận dụng triệt để chất liệu dân gian để không đưa em trở với câu hát đồng dao, câu chuyện ngụ ngôn, câu đố hấp dẫn mà qua hình thức dân gian này, em thấy thơ có tính trí tuệ, vui cười hòm hỉnh Bằng khả quan sát tinh tế cộng với vốn tiếng Việt phong phú, Phạm Hổ khéo léo tạo nên vần thơ mang âm điệu hát, 44 đậm màu sắc, giàu hình ảnh Mỗi em nhỏ bước vào thơ ông chúng ca hát, nhảy múa vui đùa, vẽ nên gam màu tự nhiên mà chúng yêu thích, thả hồn vào hình ảnh giàu chất thơ…Thơ Phạm Hổ không chịu bó hẹp hình thức thơ mà phối hợp nhuần nhuyễn hình thức thơ với việc sử dụng biện pháp tu từ mang lại hiệu nghệ thuật cao Từ thơ mang hình thức đối đáp đến thơ mô vật, tượng tự nhiên hay vần thơ sử dụng hình thức trích dẫn…đều nhằm mang đến cho em vần thơ hấp dẫn nhất, đa dạng nội dung thơ ý nghĩa Đó tất Phạm Hổ trao tặng cho lớp lớp hệ thiếu nhi Việt Nam Đó tài sản tình yêu lớn, trái tim lớn trí tuệ tuyệt vời 45 […]… màu sắc Với Phạm Hổ, bên cạnh tình yêu dành cho thơ, ông còn có một niền đam mê nữa, đó là hội hoạ Song song với việc sáng tác thơ, Phạm Hổ còn có nhi u tác phẩm hội hoạ Điều này đã khiến cho trong thơ có hoạ và trong hoạ có thơ Lấy chất liệu hội hoạ để tạo nên màu sắc trong sáng tác là đặc trưng của thơ Phạm Hổ Nhi u bài thơ của ông mang đậm tính chất tạo hình với những đường nét rõ ràng và màu sắc. .. SẮC VỀ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT CỦA THƠ PHẠM HỔ VIẾT CHO THIẾU NHI Nhà văn Đức Véc Nơ Lin Đơ Man, một trong những cây bút chuyên viết cho thiếu nhi đã nhận định: “Cái khó nhất và cũng là cái đẹp nhất khi làm thơ cho các em là chú ý nói một cách hồn nhi n, nhưng không sơ sài và dễ dãi Cố gắng nhìn đời bằng cái nhìn đầy chất thơ của các em trai và các em gái, nhưng không coi thế giới trẻ thơ là thế giới… điệu của Phạm Hổ Nhạc điệu của thơ và nhạc điệu của con tàu đã hoà vào làm một Đối với trẻ thơ, điều hấp dẫn các em nhất chính là ở cách nhà thơ tạo nên âm hưởng thơ Dựa vào chất liệu ngôn ngữ, bằng tình cảm, 21 cảm xúc, sự liên tưởng, tưởng tượng của người nghệ sĩ đã tạo nên những nhạc điệu trong thơ vô cùng hấp dẫn Phạm Hổ đã tạo cho mỗi bài thơ một nhạc điệu riêng, một âm sắc riêng Những bài thơ. .. dễ dãi” [7, 26] Phạm Hổ luôn tìm cho mình một cách nhìn riêng, một phong cách riêng Thơ ông giản dị mà hấp dẫn, sâu sắc Để có những hình tượng đẹp, những bài học mang ý nghĩa nhân sinh, đến được với tâm hồn các em, Phạm Hổ đã dụng công tìm tòi, sáng tạo những hình tượng nghệ thuật độc đáo, những hình thức nghệ thuật đa dạng Những điều đó đã tạo nên nét đặc sắc của thơ ông 2.1 Nghệ thuật sử dụng chất… thường Đọc thơ ông, các em vừa sống lại những câu chuyện cổ tích mà vẫn cảm nhận được điều mới mẻ, hấp dẫn của thơ hiện đại Từ đó, các em sẽ được thưởng thức thơ từ nhi u nguồn cảm xúc khác nhau, học tập được nhi u điều khác nhau 

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
1
Thanh Thảo
15/06/2022 08:20:41
+3đ tặng

Thơ viết cho thiếu nhi là một bộ phận không thể thiếu được của nền
văn học thiếu nhi nói riêng và nền văn học Việt Nam nói chung. Những “đứa

con tinh thần” là kết quả của sự phát triển phong phú và toàn diện về mặt đề
tài, chủ đề và thể loại thơ ca cho thiếu nhi của những tên tuổi nổi tiếng như:
Võ Quảng, Định Hải, Trần Đăng Khoa… và Phạm Hổ là một trong những cây
bút tâm huyết với trẻ thơ.
Phạm Hổ sáng tác rất nhiều thể loại cho thiếu nhi: thơ, truyện, kịch,
truyện ngắn, truyện cổ tích hiện đại… Ở thể loại nào, Phạm Hổ cũng để lại ấn
tượng sâu sắc trong lòng độc giả. Đặc biệt, thơ ông viết cho các em thường
giản dị, trong sáng, hồn nhiên như những câu đồng dao dễ hiểu, dễ nhớ. Dẫn
dắt trẻ vào thế giới xung quanh đầy phong phú và thú vị. Thơ Phạm Hổ hòa

nhập vào tâm hồn trẻ tạo nên một thế giới trẻ thơ mới sống động với nhiều bất
ngờ, lý thú và mới mẻ.
Đến với thơ viết cho thiếu nhi của Phạm Hổ người đọc như lạc vào
một thế giới của tình bạn. Mỗi một bài thơ là một câu chuyện cổ tích hấp dẫn
trẻ thơ: tình bạn giữa chú bò và cái bóng của mình trong Chú bò tìm bạn hay
là tình bạn âm thầm nhưng tha thiết của những đồ dùng, vật dụng quen thuộc
trong gia đình trong Những người bạn im lặng… Nói tóm lại, thơ Phạm Hổ
không chỉ đơn thuần viết cho các em mà còn muốn truyền đến các em nguồn
mạch sống, những giá trị văn hóa đạo đức và cả những khát vọng dân tộc.
Là một giáo viên Mầm non trong tương lai và là người rất quan tâm tới
những vần thơ của Phạm Hổ viết cho lứa tuổi nhi đồng. Chúng tôi chọn
nghiên cứu đề tài “Đặc sắc trong thơ viết về tình bạn của Phạm Hổ” không

5

chỉ vì những lý do này mà còn thể hiện lòng yêu mến, trân trọng của tôi tới
hồn thơ được nhiều người kính trọng.
Từ những lý do trên đây, kế thừa và tiếp thu các ý kiến có tính chất gợi
mở của các nhà nghiên cứu về tình bạn trong thơ Phạm Hổ. Cùng với niềm
say mê thơ ca, chúng tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài: Đặc sắc trong thơ viết về
tình bạn của Phạm Hổ.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Phạm Hổ đã từng nhận được nhiều giải thưởng trong các cuộc thi sáng
tác cho thiếu nhi như: Tặng thưởng loại A trong những năm 1960 cho tác
phẩm Chú vịt bông, giải A do Hội đồng Văn học thiếu nhi - Hội văn học Việt
Nam trao tặng cho tác phẩm Những người bạn im lặng, giải thưởng Nhà nước
về Văn học thiếu nhi đợt 1 năm 2001… Với những đóng góp lớn lao ấy, nhiều
nhà nghiên cứu đã dành tặng Phạm Hổ niềm ưu ái, sự ngưỡng mộ, cảm phục
trước một tấm lòng hết mình vì tuổi thơ.
Nhà thơ Trần Đăng Khoa đã có những khám phá rất thú vị:
“Phạm Hổ đã hiến dâng trọn vẹn cái phần tinh túy nhất của đời mình,
của tâm hồn mình cho con trẻ. Đọc thơ của ông ta thấy ông rất yêu trẻ con.
Mà không chỉ yêu, ông còn kính trọng và sùng bái chúng. Vì thế nói đến ông
ta vẫn quen nghĩ đó là thi sĩ chuyên viết cho thiếu nhi, viết bằng nhiều thể
loại: thơ, truyện, kịch, truyện thần thoại, kịch bản phim hoạt hình…” [8;
tr.950].
Trong bài viết Mười lăm năm viết cho thiếu nhi nhà thơ Định Hải đã
đưa ra nhận định: “Thơ Phạm Hổ nặng khai thác khía cạnh tình cảm nhi đồng,
thơ anh uyển chuyển, giàu nhạc điệu, gần gũi với đồng dao. Bạn đọc thường
nhắc đến những bài thơ của anh như: Xe cứu hỏa, Tre, Bắp cải xanh, Chú bò
tìm bạn…” [1; tr.35].

6

Trong cuộc hội thảo về các tác giả viết cho thiếu nhi, nhà văn Nguyên
Ngọc đã phát biểu: “Bạn (Phạm Hổ) vừa mở thêm ra một cánh cửa nữa và
theo chân anh, bước ra cánh cửa ấy, ta bỗng gặp một chân trời hứa hẹn và
mênh mông hơn, vừa gần gũi vừa mới lạ, vừa quen thuộc vừa mỗi bước khiến
ta lại ngạc nhiên” [12; tr.49].
Khi nhận xét về tập thơ Từ không đến mười, nhà phê bình Vũ Ngọc
Bình khẳng định: “Tiếp theo những chú bò tìm bạn, bạn trong vườn, Phạm Hổ
vẫn phát huy cái sở trường quen thuộc là bằng vài nét bút, vẽ nên những bức
tranh khiêm tốn về kích thước mà có sức khơi gợi, giúp các em với con mắt
tạo hình của tuổi thơ trong vô số hình họa của cuộc sống”. Cùng với quan
điểm trên, nhà thơ Phạm Đình Ân cũng ghi nhận: “Nhà thơ Phạm Hổ đã dành
cả cuộc đời viết cho các em. Thơ ông nghiêng về sự quan sát chi tiết, tỉ mỉ,
tinh tế với một cách biểu đạt ngộ nghĩnh, giàu nhân ái” [11; tr38].
Từ thực tiễn nghiên cứu trên, chúng tôi nhận thấy: Các sáng tác thơ
Phạm Hổ viết cho thiếu nhi viết về tình bạn đã được nhiều nhà nghiên cứu
quan tâm, chú ý. Tuy nhiên lại chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu tìm
hiểu một cách hệ thống về đặc sắc trong thơ tình bạn của Phạm Hổ viết cho
thiếu nhi. Đó là gợi ý để chúng tôi đi sâu nghiên cứu đề tài này và những ý
kiến của các nhà nghiên cứu đi trước sẽ là những định hướng quý báu giúp
chúng tôi khai triển khóa luận: Đặc sắc trong thơ viết về tình bạn của Phạm Hổ.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những nét đặc sắc trong thơ viết về tình bạn của Phạm Hổ
dành cho thiếu nhi qua đó khẳng định những đóng góp to lớn của ông đối với
sự phát triển của Văn học thiếu nhi Việt Nam.
4. Phạm vi nghiên cứu
Để thực hiện đề tài: Đặc sắc trong thơ viết về tình bạn của Phạm Hổ,
chúng tôi tập trung khảo sát toàn bộ sáng tác thơ Phạm Hổ viết cho các em
gồm các tập:

7

- Chú bò tìm bạn
- Những người bạn im lặng
- Từ không đến mười
- Đỗ trắng đỗ đen
- Cháu chọn hạt nào
- Những người bạn nhỏ
- Bạn trong vườn
- Em thích em yêu
- Những người bạn ồn ào
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp khảo sát thống kê
- Phương pháp phân tích tổng hợp
- Phương pháp so sánh
6. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của
khóa luận được triển khai trong 2 chương sau:
Chương 1: Phạm Hổ với văn học thiếu nhi
Chương 2: Tình bạn trong thơ Phạm Hổ viết cho thiếu nhi

8

NỘI DUNG
Chương 1
PHẠM HỔ VỚI VĂN HỌC THIẾU NHI
1.1. Vài nét về thơ Phạm Hổ viết cho thiếu nhi
Suốt gần nửa thế kỉ cầm bút viết cho thiếu nhi, nhà thơ Phạm Hổ từng
tâm sự: “Nếu được sống thêm một lần nữa, tôi vẫn chọn nghề cũ: làm thơ,
viết văn cho các em đọc, còn vẽ tranh cho các em xem nữa. Tôi thường lấy
lòng yêu mến các em, lấy những công việc mình làm cho các em làm thước
đo lòng mình đối với dân với nước…”.
Phạm Hổ sinh ngày 28 tháng 11 năm 1926 tại xã Nhơn An, huyện An
Nhơn, tỉnh Bình Định trong một gia đình nhà Nho có truyền thống văn học.
Ông có anh trai là nhà thơ Phạm Văn Ký và em trai là Phạm Thế Mỹ. Được
sinh ra trong một gia đình có truyền thống thơ ca như vậy nên Phạm Hổ chịu
ảnh hưởng rất nhiều từ những người thân khi sáng tác. Đây chính là tiền đề để
Phạm Hổ trở thành một trong những cây đại thụ của nền văn học nước nhà.
Quy Nhơn là nơi có nhiều danh lam thắng cảnh. Những cảnh đẹp của
quê nhà đã tạo nguồn cảm hứng cho Phạm Hổ trong rất nhiều trang viết của
ông. Mỗi khi có dịp viết về miền đất và con người Bình Định, Phạm Hổ luôn
tỏ ra say sưa với những tình cảm quê hương ngọt ngào, nhất là khi nó gắn liền
với những ký ức tuổi thơ trong trẻo, mộc mạc mà thấm sâu trong lòng ông.
Đây cũng là mảnh đất giàu truyền thống yêu nước, là nơi nuôi dưỡng nhiều
nhà thơ, nhà văn nổi tiếng như: Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử…
Ông đỗ bằng thành chung năm 1943 tuy nhiên do gặp tai nạn nên ông
không thể ra Huế học bán trú tại trường quốc học Huế. Ông làm thư kí công
nhật cho tòa sứ Quy Nhơn để đỡ mẹ nuôi các em và tự học để thi tú tài.
9

Cái duyên với văn học nghệ thuật thực sự bắt đầu nơi ông khi cách
mạng tháng Tám thành công, dẫu rằng ông vốn say mê văn học từ nhỏ. Làm
thư kí thường trực ở Chi hội văn hóa Cứu Quốc do nhà thơ Trần Mai Ninh
phụ trách rồi dự học lớp hội họa kháng chiến liên khu 5 do họa sĩ Nguyễn Đỗ
Cung chủ nhiệm, rồi đi thực tế sáng tác ở miền tây Bình Định (vùng giáp cận
An Khê). Phạm Hổ vừa vẽ vừa làm thơ và như ông thừa nhận có khi mê làm
thơ hơn vẽ. Đến đầu năm 1950, Phạm Hổ được cử đi dự hội nghị Văn học
toàn quốc ở Việt Bắc với tư cách là một nhà thơ trẻ liên khu 5.
Trong khoảng thời gian 1952 - 1953, Phạm Hổ có “hai năm vàng” ở
quê, ông vừa làm công tác văn hóa thông tin vừa thâm nhập sâu vào thực tế
đời sống để có thể hiểu thế nào là nông dân, thế nào là chân lấm tay bùn, thế
nào là đầu tắt mặt tối… Phạm Hổ xem đó là những tư liệu cần thiết để một
nhà văn sáng tác phục vụ nhân dân.
Tháng 1 năm 1954, Phạm Hổ có mặt ở Hà Nội và làm công tác đối
ngoại ở Hội Văn nghệ Trung Ương. Sau Hiệp định Genevơ năm 1954, ông ra
Bắc tham gia sáng lập Hội nhà văn miền Bắc (1957) và cũng là một trong
những người đầu tiên hình thành nhà xuất bản Kim Đồng - nơi chuyên xuất
bản văn hóa phẩm dành cho trẻ em. Trong những năm chống Mĩ, Phạm Hổ
làm việc trong nhiều cương vị ở nhà xuất bản Kim Đồng, nhà xuất bản Hội
nhà văn, báo Văn nghệ… Ông đi nhiều nơi, có khi vào cả tuyến lửa Quảng
Bình, Vĩnh Linh để lấy tài liệu sáng tác. Đất nước thống nhất, Phạm Hổ vẫn
tiếp tục đi nhiều nơi và sáng tác, nhất là sáng tác cho thiếu nhi Việt Nam.
Từ năm 1983, ông là Phó trưởng ban đối ngoại của Hội Nhà văn Việt
Nam và là Chủ tịch Hội đồng văn học thiếu nhi của hội.
Ngày 4 tháng 5 năm 2007, Phạm Hổ qua đời ở tuổi 81. Song hình như
với thiếu nhi Việt Nam, ông già tóc bạc ấy vẫn mãi là người bạn thân thiết của
tuổi nhỏ.

10

1.2. Đóng góp của Phạm Hổ trong văn học thiếu nhi Việt Nam
Phạm Hổ sáng tác nhiều thể loại: thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, truyện
cổ tích hiện đại, kịch cho cả người lớn và trẻ em. Sự phong phú trong thể loại
và số lượng dày dặn các tác phẩm ít nhiều chứng minh cây bút Phạm Hổ có
nguồn tiềm lực sáng tác dồi dào và khá linh động.
Phạm Hổ là một trong những cây bút xuất sắc của văn học thiếu nhi nói
riêng và ông là một trong những người đặt nền tảng đầu tiên xây dựng nền
văn học cho thiếu nhi Việt Nam. Điều đó được chứng minh qua hơn 60 năm
cầm bút vì tình yêu trẻ thơ, Phạm Hổ đã để lại khoảng trên 20 tập thơ, 9 tập
truyện và 4 vở kịch tặng riêng các em.
Những tác phẩm chính:
Thơ:
- Em tre (1948)
- Chú bò tìm bạn (1957)
- Em thích em yêu (1958)
- Những người bạn nhỏ (1960)
- Bạn trong vườn (1967)
- Từ không đến mười (1973)
- Mẹ, mẹ ơi, cô bảo (1980)
- Những người bạn im lặng (1984)
- Đỗ trắng đỗ đen (1991)
- Cháu chọn hạt nào (1992)
- Câu chuyện về Miu trắng (1993)
Truyện:
- Viết thư cho cha (1959)
- Khẩu súng người ông (1960)
- Cất nhà giữa hồ (1964)
- Chuyện hoa, chuyện quả (tập 1, 1974)
- Lửa vàng, lửa trắng (1976)
- Chuyện hoa, chuyện quả (tập 2, 1982)
- Tiếng sáo và con rắn (chuyện hoa, chuyện quả, tập ba, 1985)
- Ngựa thần từ đâu đến (1986)
- Nhứng chú sẻ con (1988)
- Hai vợ chồng và con voi quý (chuyện hoa, chuyện quả, tập bốn, 1988)

11

- Chim lưu ly (chuyện hoa, chuyện quả, tập năm, 1990)
- Quả tim bằng ngọc (chuyện hoa, chuyện quả, tuyển chọn, 1993)
- Lửa vàng, lửa trắng, lửa nâu ( 1993)
Kịch:
- Nàng tiên nhỏ thành Ốc (1981)
- Tìm gặp lại anh (1981)
- Người gái hầu của Mị Châu (1984)
- Mị Châu và chiếc áo lông ngỗng (1984)
Với sự đóng góp to lớn đó dành cho thiếu nhi, Phạm Hổ đã được trao
tặng nhiều giải thưởng văn học:
- Giải A trong các cuộc vận động sáng tác cho thiếu nhi với các tập thơ
Chú bò tìm bạn (1957 - 1958), Chú vịt bông (1967 - 1968).
- Giải thưởng chính thức về thơ viết cho thiếu nhi của hội đồng văn học
thiếu nhi, Hội nhà văn Việt Nam với tập thơ Những người bạn im lặng
(1985).
- Giải thưởng cuộc thi sáng tác kịch bản cho thiếu nhi do Hội nghệ sĩ
sân khấu tổ chức với vở kịch Nàng tiên nhỏ thành Ốc (1986).
Với những đóng góp quan trọng cho nền văn học thiếu nhi, Phạm Hổ
xứng đáng với Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật (đợt 1 - 2001).
1.3. Quan niệm sáng tác của Phạm Hổ về văn học viết cho thiếu nhi
Phạm Hổ chọn con đường đi vào thế giới tâm hồn trẻ thơ khác với
nhiều người. Ông tâm niệm: “Đối với tôi được viết cho các em là cả một hạnh
phúc”. Rất nhiều lần ông đã phát biểu như vậy và tinh thần đó lại một lần nữa
được ta bắt gặp trong Những bài thơ nho nhỏ:
“Thật đơn sơ là hạnh phúc?
Được viết cho các em
Những bài thơ nho nhỏ”
Thơ văn của Phạm Hổ được chọn lọc đưa vào giảng dạy ở các lớp mẫu
giáo có các bài thơ: Cô giáo, Xe chữa cháy, Bắp cải xanh, Sen nở, Tâm sự
của cái mũi, Vì sao, Chùm thơ con gà và quả trứng…

12

Ông còn có trên 50 đầu sách sáng tác cho thiếu nhi với nhiều giải
thưởng của Hội đồng thiếu nhi Việt Nam, Trung ương Đoàn tặng… Sự vất vả
và cực nhọc của nghề cuối cùng đã kết tinh thành “những đứa con tinh thần”
tạo nên niềm vui cho nhà thơ.
Cả cuộc đời Phạm Hổ đã yêu thương với một tình yêu đằm thắm mà
ông dành trọn cho thế hệ trẻ. Dường như ông luôn sống với niềm mong ước:
làm sao cho các tác phẩm của mình đem đến cho tâm hồn các em chân, thiện,
mĩ…
Trong cuộc đời sáng tác của mình, phần lớn tâm huyết và bút lực Phạm
Hổ dành cho thiếu nhi và ông đã đạt được những thành công xuất sắc nhất ở
mảng thơ. Chính vì vậy mà bạn đọc thường gọi ông là nhà thơ của tuổi thơ.
Phạm Hổ còn cho rằng “Trước khi viết cho các em nhà thơ phải là bầu
bạn của các em”. Phải hiểu được tâm tư, suy nghĩ và tình cảm của chúng. Ông
tâm sự: “Tôi đặc biệt chú ý đến tình bạn trong đời sống con người”.
Trong quá trình sáng tác, Phạm Hổ đã tìm ra một điều rất ý nghĩa: Thế
giới xung quanh luôn là những người bạn của các em. Các em có thể vui đùa
bên những người bạn là thế giới cỏ cây, hoa lá, những người bạn là động vật,
là đồ vật… Tất cả những người bạn ấy đều sống động, có hồn và gần gũi với
các em. Vì vậy Phạm Hổ đã tổng kết: “Thiên nhiên gợi cho chúng ta bao điều
suy nghĩ về cuộc sống con người… bằng chính cái đẹp, thiên nhiên dạy cho ta
yêu cái đẹp….” [5; tr.76].

13

Chương 2
TÌNH BẠN TRONG THƠ PHẠM HỔ VIẾT CHO THIẾU NHI
2.1. Cách đặt tên các bài thơ, tập thơ
Đi vào thế giới thơ Phạm Hổ, ta bắt gặp tất cả những gì quen thuộc
trong cuộc sống hàng ngày của các em. Đó là cái kéo, cái chổi, là con chó,
con mèo, là cây na, quả khế… Tất cả đều có mặt trong thơ ông một cách tự
nhiên, dung dị. Thực ra, những nhân vật này cũng hiện diện trong sáng tác
của hầu hết các nhà thơ viết cho thiếu nhi. Vậy đâu là nét riêng trong nghệ
thuật trữ tình của Phạm Hổ?
Dấu hiệu nhận biết đầu tiên thơ Phạm Hổ nói nhiều về tình bạn được
thể hiện qua lời thừa nhận của nhà thơ: “Tôi đặc biệt chú ý đến tình bạn trong
đời sống con người. Trong hơn 10 tập thơ viết cho các em, đã có 6 tập”. Vấn
đề tình bạn không chỉ được Phạm Hổ quan tâm mà đó cũng là vấn đề được rất
nhiều nhà văn, nhà thơ khác quan tâm bởi đó clà thứ gần gũi đang diễn ra
trong cuộc sống quanh ta. Trẻ em vốn rất khát khao tình bạn. Mỗi đứa trẻ đều
có nhu cầu chơi cùng bạn bè, có nhu cầu kết bạn để có thể chia sẻ với nhau
trong cuộc sống hoặc đơn giản là cùng nhau chơi một trò chơi… như vậy
cũng đã đủ với chúng rồi.
Nhận biết chủ đề tình bạn trong thơ Phạm Hổ còn được thể hiện ở việc
nhà thơ đặt tên cho các tập thơ: Chú bò tìm bạn, Bạn trong vườn, Những
người bạn im lặng, Những người bạn ồn ào… Đi vào văn bản, ta thấy cảm
hứng tình bạn xuyên thấm ở hầu hết mọi bài thơ, tập thơ. Dù viết về điều gì,
Phạm Hổ cũng đều gợi lên cho các em một câu chuyện tình bạn. Một chú bò
đi lang thang trong chiều với tiếng “ậm…ò…” đã trở thành hình ảnh đáng yêu
trong nỗi thiết tha gọi bạn. Tôi muốn nói đến trường hợp bài thơ Chú bò tìm
bạn. Bài thơ này được Phạm Hổ viết vào năm 1952, gợi nguồn cảm hứng cho

14

nhà thơ là hình ảnh những chú bò chiều chiều ra sông uống nước. Đâu đó
trong không gian chiều muộn vang vọng tiếng “ ậm… ò…”. Tứ thơ chợt đến,
bài thơ hiện ra sau những thăng hoa của cảm xúc.
“Mặt trời rúc bụi tre
Buổi chiều về nghe mát
Bò ra sông uống nước
Thấy bóng mình, ngỡ ai
Bò chào: “Kìa anh bạn
Lại gặp anh ở đây!”
Nước đang nằm nhìn mây
Nghe bò cười nhoẻn miệng
Bóng bò chợt tan biến
Bò tưởng bạn đi đâu
Cứ ngoái trước nhìn sau
“Ậm ò” tìm gọi mãi”
(Chú bò tìm bạn)
Trong cảm quan dân gian, chú bò là biểu tượng của tính lơ ngơ (Lơ ngơ
như bò đội nón). Trong thơ Phạm Hổ, chú bò vẫn có cái lơ ngơ nhưng thật
đáng yêu. Đáng yêu ở hành vi biết chào hỏi, đáng yêu ở hành vi thiết tha gọi
bạn…
Bài thơ Chú bò tìm bạn được xem là tiêu biểu cho phong cách thơ
Phạm Hổ. Sau bài thơ này, cảm hứng tình bạn như một dòng chảy tuôn trào
mang những hạt phù sa màu mỡ vào cánh đồng thơ Phạm Hổ. Kết quả, cánh
đồng thơ ấy cứ lấp lánh lên những sắc màu đáng yêu của tình bạn. Đúng là
với Phạm Hổ, thế giới được cấu trúc theo quan hệ tình bạn.
Con chó, con mèo nào có ghét nhau. Chúng chơi với nhau thật thân
thiết.

15

“Rủ nhau chơi ú tim
Giờ đến phiên chó chốn
Mèo đảo mắt nhìn quanh
Chó nấp đâu giỏi gớm!
Bỗng kìa chỗ khe tủ
Chó để lộ cái đuôi
Rón rén mèo đến nơi
Òa! Chộp ngay lung bạn...”
(Chơi ú tim)
Xây dựng chủ đề tình bạn là một chủ ý nghệ thuật của Phạm Hổ. Ngoài
việc đặt tên cho từng tập thơ theo chủ đề tình bạn, ông cũng kết hợp tạo ra
những hệ thống: bạn trong nhà, bạn trong vườn, những người bạn im lặng,
những người bạn ồn ào… Tất cả những việc làm này không ngoài mục đích tô
đậm cảm hứng tình bạn trong thơ ông.
2.2. Sự thể hiện tình bạn trong thơ Phạm Hổ viết cho thiếu nhi
Sự thể hiện tình bạn trong thơ Phạm Hổ viết cho thiếu nhi phong phú
và đa dạng. Đó là những người Bạn trong vườn như các loài hoa, loài quả; là
Những người bạn im lặng trong thế giới đồ vật; là Những người bạn nhỏ bao
gồm những con vật nhỏ bé, gần gũi với con người. Bên cạnh đó, Phạm Hổ
còn dành nhiều tâm huyết để viết về những người bạn nhỏ ngộ nghĩnh đáng
yêu.
2.2.1 Những người bạn là cây cối
Phạm Hổ tâm niệm: “Tôi ít khi gặp thấy một cái cây xấu, một bông hoa
xấu, một trái quả xấu. Có thể nói tất cả đều đẹp. Có những cây, những hoa,
những quả tuyệt đẹp. Cả về bên ngoài, cả về bên trong” [4; tr.74]. Vì trong tạo
hóa tất cả những cây tre, cây si, cây đa, cây lúa, hoa sen, quả thị, quả na, quả
ổi… đều có một hình dạng riêng và đều đẹp, đều hấp dẫn. Khi chúng đứng

16

một mình vốn đã đẹp, chúng kết lại thành chùm, nở thành khóm thì vẻ đẹp
của nó đã được nâng lên thành vẻ đẹp của sức mạnh tập thể.
Thơ Phạm Hổ tinh tế, giàu cảm xúc, sức tưởng tượng vô cùng phong
phú. Nhà thơ nói hộ các em một cách chân thực, sinh động những người Bạn
trong vườn có vô số loài cây, loài hoa, loài quả. Cảm động mà chân thực, đó
là hình ảnh cây dưa mẹ “yếu mềm” và đàn dưa con “to nặng”:
“Dây dưa hấu yếu mềm
Sinh đàn con to nặng
Mẹ không bế nổi con
Đành giao nhờ đất ẵm”
(Dưa)
Qua bài thơ này, Phạm Hổ muốn các em thấy được đặc điểm của cây
dưa là một loại cây có dây leo, sống ở dưới đất. Mặt khác, thông qua việc dưa
nhờ đất ẵm con thì tác giả khéo léo lồng ghép các hình ảnh để trẻ có thể thấy
được tình cảm thân thiết giữa dưa và đất. Dưa và đất là đôi bạn thân, luôn
giúp đỡ nhau và không thể tách rời.
Gần gũi với trẻ em Việt Nam là mỗi góc vườn. Trong góc vườn thân
yêu đó, khế là một loài cây rất quen thuộc. Phạm Hổ đã miêu tả chân thực
từng chùm hoa, múi quả, đặc tính và tác dụng của nó:
“Hoa từ trên cao
Rủ nhau xuống giếng
Tắm xong hoa tím
Theo gầu nước lên
Ai nặn nên hình
Khế chia năm cánh
Khế chín đầy cây
Vàng treo lóng lánh…!

17

Con cua con hến
Giữa ruộng ven sông
Nấu chung sao khế
Cơm canh ngọt lành”
(Khế)
Một loài cây mọc bên bờ ao, góc vườn, hoa màu tím, quả hình năm
cánh, khi chín chuyển sang màu vàng, là gia vị không thể thiếu trong món
canh chua đồng quê… Với một câu hỏi tu từ “Ai nặn nên hình?”, Phạm Hổ đã
khiến trẻ em tò mò, thích thú. Còn nữa, Phạm Hổ còn đưa các em về với món
ăn dân dã, quen thuộc từ bao đời nay: Món canh chua nấu khế như một thứ
“quốc hồn” của người Việt.
Chân thực mà sinh động là những gì Phạm Hổ đã dành cho những
người Bạn trong vườn. Không chỉ có dưa, khế mà còn biết bao nhiêu cây,
hoa, quả khác nữa như: na, lựu, ổi, bưởi, roi, sầu riêng... cũng được nhà thơ
miêu tả chân thực như những gì chúng vốn có. Từ những hình ảnh chân thực
sinh động này, các em không chỉ biết thêm nhiều về thế giới thực vật mà còn
thêm yêu những loài cây, thứ quả gần gũi xung quanh mình như những người
bạn thật đặc biệt của trẻ thơ.
Thế giới cỏ cây hoa lá trong thơ Phạm Hổ còn hấp dẫn bởi những hình
dạng vô cùng phong phú. Nói về sự đa dạng của thiên nhiên Phạm Hổ khẳng
định: “Sự phong phú của thiên nhiên thì có lẽ không có gì có thể so sánh
được. Không một cái gì giống cái gì. Triệu triệu họ cây, từ cây rêu bé tí như
cái lông tơ của chú vịt con đến cây chò cao vút lưng chừng trời… trong một
loài cam có bao nhiêu thứ cam, trong một họ bứa có bao nhiêu thứ bứa. Có
bao nhiêu dáng hoa, màu hoa, có bao nhiêu mùi thơm, có bao nhiêu cách
chín: chín trắng, chín vàng, chín đỏ, chín xanh, chín tím, chín đen… và kèm
theo là bao nhiêu là cá tính: hoa này nở sáng hoa kia nở tối, hoa này thích

18

sương hoa kia thích gió, quả này có hột ở trong, quả kia có hột ở ngoài… Rồi
đến sự kì diệu của thiên nhiên từ lá sang hoa, từ hoa sang quả” [6; tr76].
Hãy xem Phạm Hổ khắc họa hình dạng quả ổi và sự hấp dẫn của nó:
“Ổi tặng bạn
Quả ổi ngon
Đã chín trắng
Lại mập tròn
Đào: ruột hồng
Mỡ: ruột trắng
Ai mới cắn”
(Ổi)
Đây là trái ổi với hình dạng tròn, mập mạp, mọng, đang vào vụ chín.
Điều khác biệt của trái ổi là khi chín không ngả vàng mà “chín trắng”. Những
tưởng ổi là trái quả khó tạo nên sự rực rỡ, nhưng trong cái nhìn riêng của
Phạm Hổ, ổi không chỉ ngon, ngọt mà hương thơm còn toát lên vẻ quyến rũ,
tự khoe sắc của mình từ trong sâu thẳm đáy lòng của mỗi trái ổi.
Quả sung và lá sung được Phạm Hổ khắc họa rất thật nhưng không hề
khô khan mà còn rất sinh động, lột tả được hết đặc điểm của lá sung, quả
sung và tính chất của quả khi chín hay khi còn xanh:
“Sung già nhất vườn
Lá như bỏng nổ
Chi chít đầy cành
Quả xanh, quả đỏ
Quả xanh, trẻ nhỏ
Quả đỏ, bà già…”
(Sung)

19

Hình ảnh so sánh “Lá như bỏng nổ” là một sự sáng tạo độc đáo của nhà
thơ mà vẫn miêu tả được chân thực hình dáng của lá sung, lại vừa khơi gợi
được trí tưởng tượng phong phú, sinh động của trẻ.
Cây bắp cải khoác lên mình một màu xanh mát mắt, từng lá sắp vòng
tròn, ôm ấp búp cải non đang cuộn mình ngủ ngon. Qua cách miêu tả của nhà
thơ, trẻ em biết được quy luật sinh trưởng, cách sắp xếp lá và cấu tạo của cây
bắp cải:
“Bắp cải xanh
Xanh mát mắt
Lá cải sắp
Sắp vòng tròn
Búp cải non
Nằm ngủ giữa”
(Bắp cải xanh)
Qua bài thơ này, Phạm Hổ còn muốn nhắn thêm một thông điệp về tình
cảm mẹ con. Búp cải non nằm ở giữa được bao bọc bởi nhiều lớp lá bên ngoài
cũng như một đứa trẻ được người lớn và nhất là người mẹ che chở từng chút,
từng chút một và mong con lớn khôn từng ngày.
Hay khi giới thiệu cho các em về cây cà rốt, nhà thơ cũng miêu tả
chúng bằng những nhịp điệu chân sáo trong trang phục áo xanh, quần đỏ:
“Lá xanh
Củ đỏ
Lớn nhỏ
Bên nhau
Đất đội
Ngập đầu
Nhảy lên

20

 
Mai Linh
bạn cho mình xin link phần đề tài này đc không
1
2
Hoàng Thanh Thảo
15/06/2022 08:20:47
+2đ tặng

Sinh năm 1926, quê hương nhà thơ Phạm Hổ ở bên dòng sông Côn (Nhơn An, An Nhơn, Bình Định), nơi từng hội tụ nhiều tài thơ: Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử... Ông có nhiều tài và sớm thành danh. Bắt đầu sáng tác từ năm 18 tuổi, mấy năm sau được sự giúp đỡ của Trần Mai Ninh, Nguyễn Đỗ Cung, ông đã có sách in, tranh triển lãm và là thành viên Ban Chấp hành Đoàn Hội họa Liên khu 5 kiêm ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Hội Văn nghệ Liên khu 5. Năm 1950, Phạm Hổ được cử ra Việt Bắc dự Hội nghị văn nghệ toàn quốc (cùng đi với Nguyễn Văn Bổng), và là một trong những đại biểu trẻ nhất.

Gần 60 năm cầm bút, ông đã in hơn 70 tập thơ, văn, kịch bản ngắn dài. Thơ (viết cho người lớn) của ông đã có mặt trong những tuyển tập sang trọng. Nhưng có thể khẳng định: viết cho thiếu nhi mới là tâm huyết một đời của Phạm Hổ như ông tâm sự: "Nếu được sống thêm một lần nữa, tôi vẫn chọn nghề cũ: làm thơ, viết văn cho các em đọc, còn vẽ tranh cho các em xem nữa" (Nhà văn Việt Nam hiện đại, NXB Hội Nhà văn 1996). Trong bài thơ "Những bài thơ nho nhỏ", một lần nữa Phạm Hổ khẳng định lại tinh thần ấy: Suốt đời tôi chỉ mơ/ Được làm cho các em/ Những bài thơ nho nhỏ/ Như những hòn bi xanh đỏ các em chơi/ Như những quả quít quả cam các em tay bóc, miệng cười/ Như những chú gà con chạy lon ton bên mẹ/ Các em đặt lên tay vuốt ve, bồng bế/ Như những ô cửa xinh xinh mở cùng bốn phía/ đón hương lúa thơm và tiếng hát chim trời/ Thật đơn sơ… là hạnh phúc của tôi.

Viết cho thiếu nhi, Phạm Hổ đã xuất bản hơn 50 tập với đủ loại: thơ, đồng thoại, huyền thoại truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch ngắn, kịch dài, cổ tích kể thêm và cổ tích viết mới. Trong mảng văn học này, Phạm Hổ là cây bút viết nhiều, viết tốt. Tập thơ đầu tay của ông viết trong kháng chiến chống Pháp là dành cho các em: "Em vẽ Bác Hồ" (1948). Văn thơ Phạm Hổ thiên về tính lý tưởng, trong sáng, nhẹ nhàng. Ông trăn trở nhiều lần với các truyền thuyết lịch sử nhằm khơi gợi lòng tự hào và những phẩm chất tốt đẹp của dân tộc. Ông viết hơn 50 tích truyện về các loài cây cỏ (Chuyện hoa chuyện quả), không chỉ gây lòng yêu thiên nhiên, đất nước mà còn cố sức khắc sâu, tô đậm trong các em những tình cảm gốc rễ: tình gia đình, tình bạn bè... (không chỉ bạn cùng lứa mà còn là bạn bè, bạn sáo, bạn mít, bạn na...). Có thể nói mỗi câu, mỗi chữ của Phạm Hổ đều thấm đẫm lòng yêu thương con trẻ.

Thơ văn Phạm Hổ đều bắt nguồn từ văn mạch dân tộc, từ đồng dao, cổ tích và đều là sự cố gắng hết lòng của ông với các em. Nhưng xem ra sở trường của ông, thành tựu nổi bật của ông là thơ. Ông đã ba lần được giải thưởng cao về thơ trong các cuộc vận động viết cho thiếu nhi: tặng thưởng loại A trong các cuộc vận động sáng tác cho thiếu nhi với các tập thơ "Chú bò tìm bạn" (1957-1958), "Chú vịt bông" (1967- 1968); giải thưởng chính thức về thơ viết cho thiếu nhi của Hội đồng văn học thiếu nhi, Hội Nhà văn Việt Nam với tập thơ "Những người bạn im lặng" (1985) và một lần về kịch bản cho thiếu nhi do Hội nghệ sĩ sân khấu tổ chức với vở "Nàng tiên nhỏ thành Oác". Năm 2001, ông đã được tặng giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật (đợt 1).

Tâm hồn của Phạm Hổ cho ta sống lại những ngày thơ trẻ ngây thơ, trong trắng đã vuột đi không bao giờ trở lại trong một niềm vui, niềm xúc động bâng khuâng khó tả. Ông đã từng nói: "Muốn viết hay cho các em, điều hết sức quan trọng là phải yêu và hiểu các em". Ông là người rất yêu trẻ em. Nhân vật trong thơ ông là hình ảnh các em bé thơ ngây, hồn nhiên bước vào ngưỡng cửa cuộc đời với bao nhiêu xúc động, nghĩ suy một cách ngỡ ngàng và lý thú. Những quả trứng tròn cũng làm cho bé ngạc nhiên: Mười quả trứng tròn/ Mẹ gà ấp ủ/ Mười chú gà con/ Hôm nay ra đủ/ Lòng trắng lòng đỏ/ Thành mỏ thành chân/ Cái mỏ tí hon/ Cái chân bé xíu… hay đây là những vần thơ về "Xe chữa cháy": Mình đỏ như lửa/ Bụng chứa nước đầy/ Tôi chạy như bay/ Hét vang đường phố/ Nhà nào bốc lửa/ Tôi đập liền tay/ Ai gọi chữa cháy?/ "Có…ngay! Có…ngay!.

Tuổi thơ là tất cả bắt đầu và tất cả trở thành mới lạ. Mọi vật xung quanh trẻ cũng trở thành tò mò muốn hiểu biết… Sáng mai thức dậy nhìn cánh hoa hồng trước cửa đọng giọt sương, bé ngây thơ hỏi: Chị ơi! Vì sao/Hoa hồng lại khóc?. Hay thấy cây lúa đang rì rào bỗng lặng im, bé níu tay mẹ và hỏi: Dưới ánh trăng đêm/ Cô lúa đang hát/ Sao bỗng lặng im…?. Rồi đến: Sáng mát mẹ phơi áo/ Chiều về mẹ lấy áo/ Bé sờ áo hỏi mẹ/ Nước trong áo đi đâu?. Cái rế là một đồ vật quen thuộc, có mặt trong mọi gia đình Việt Nam. Cái rế được dùng để bưng bê nồi chảo khi đang nóng. Từ thực tế "cái rế nó bế cái nồi", Phạm Hổ đã tạo nên một câu chuyện về tình bạn: Ôm lấy nồi, lấy chảo/ Rế như cái đài hoa/ Chảo, nồi đang bận nấu/ Rế ngồi bên đợi chờ….

Trẻ thơ nhìn cuộc đời thật ngây thơ, thật ngộ nghĩnh và cũng thật đáng yêu biết nhường nào. Vì ngây thơ, vì ngỡ ngàng trước cuộc sống nên các em hay hỏi. Khi các em hỏi rồi thì thích được trả lời. Nhà thơ Phạm Hổ đã hiểu biết rõ tâm lý của trẻ thơ và ông đã kịp thời trả lời cho các em bằng cách riêng của mình. Lời giải đáp của ông bao giờ cũng biện chứng mà lại hợp với cách nhìn, cách nghĩ của trẻ em: Không phải đâu em/ Đấy là hạt ngọc/ Người gọi là sương/ Sao đêm gởi xuống/ Tặng cô hoa hồng  Lúa đang hát cũng lặng im  Chú gió đi xa/ Lúa buồn không hát.

Tâm lý các em nhỏ là tò mò, thích hiểu biết, thích khám phá ra những điều mới lạ, vì thế Phạm Hổ đã dẫn các em vào thế giới đầy hấp dẫn mà các em ham muốn. Nhà thơ Phạm Hổ như một anh phụ trách dẫn các em đi, miệng cười tươi và giảng giải cho các em nghe những điều bổ ích và lý thú. Mỗi bài thơ ông viết là một bài học phong phú, sinh động về loài cây, loài con, về đất nước con người. Cây thị, quả thị có thật ở ngoài đời, có trong truyện cổ tích, nay lại có trong thơ Phạm Hổ:

Lá xanh, quả xanh

Lặng im trên cành

Lá xanh, quả vàng

Chim chuyền rung rinh

… Bà kể thị này

Ngày xưa cô Tấm

Chui vào đây trốn

Đợi ngày gặp vua

Bằng các bài thơ ông đã dẫn các em vào thế giới những vật xung quanh, từ những cái rất bình thường ông đã khám phá ra những vẻ đẹp, sự giàu có và giàu chất thơ nữa. Bài thơ "Gà con và quả trứng" vẽ ra trước mắt bé hình ảnh một con gà mẹ thật chăm chỉ nhặt nhạnh, bòn mót, bới tìm thức ăn trong cuộc sống. Một hình ảnh có thật và là sự việc rất bình thường.

Từ gà mái ghẹ đến khi to béo.. rồi đến một hôm gà tớn tác nhảy lên ổ rơm đẻ ra trứng hồng. Quả trứng sáng rực nằm trong ổ trở thành một điều kỳ diệu trong con mắt trẻ thơ - chất thơ ở đó là thế…Bé vẫn còn ngạc nhiên tiếp là, từ quả trứng nở ra chú gà con. Bé và chú gà con sao giống nhau vậy. Chúng luôn luôn muốn hỏi, muốn được trả lời những điều kỳ diệu trên đất nước, trong cuộc đời…

Gà mổ hạt thóc

Nấp chân cối xay

Nhặt hạt cơm nguội

Em bé vung tay

Gắp chú giun gầy

Lê mình trên đất

Rứt ngọn cỏ ngọt

Chưa lên thành cây

Tớp cô mối bay

Vườn mưa ngập nước…

…Mẹ nói đúng đấy

Lớn con hiểu dần

Nhiều chuyện rất thật

Mà lạ vô cùng …

Thơ ông hay vì đã nhuyễn cái mộc mạc trong sáng, ngộ nghĩnh của ca dao và nét nhuần nhị, thâm thúy của thơ ca cổ điển. Mỗi bài là một bài học nhưng ông không cao giọng rao giảng mà nhỏ nhẹ tâm tình với những câu thơ ngọt ngào vần điệu và tươi sáng những màu sắc, đường nét tạo hình. Chúng ta tin đã và sẽ còn nhiều thế hệ bạn đọc nữa thuộc lòng: Chú bé tìm bạn, Xe chữa cháy, Mười quả trứng tròn, Bắp cải xanh, Gà nở...

3
0
Chou
15/06/2022 13:33:42
+2đ tặng
  1. Những ai quan tâm tới nền văn học Việt Nam hiện đại hẳn đều biết tên tuổi nhà văn Phạm Hổ. Ông là một nhà văn chuyên viết cho thiếu nhi. Hơn nửa thế kỷ cầm bút, Phạm Hổ đã tạo được một sự nghiệp văn chương phong phú bao gồm thơ, truyện và kịch. Dù viết theo thể loại nào, Phạm Hổ cũng đều đạt được những thành công quan trọng. Ông thực sự  đã tạo được cho mình một phong cách nghệ thuật riêng.        

2. Nói riêng về thơ, Phạm Hổ có khoảng 20 tập thơ. Thơ Phạm Hổ, như Vũ Duy Thông nhận xét “thiên về lứa bạn đọc nhỏ tuổi, từ 5 đến 8 tuổi”[1]. Đây là lứa tuổi có những đặc thù riêng về tâm lý tiếp nhận thơ ca. Trên cơ sở hiểu biết về đối tượng, Phạm Hổ đã không ngừng tìm tòi những nội dung, những hình thức biểu đạt phù hợp, khiến cho mỗi bài thơ là một niềm vui dành tặng cho các em.     

2.1. Trước khi bàn vào thơ, thiết nghĩ cần nói đôi điều về quan niệm làm thơ cho các em của Phạm Hổ. Không thuộc loại người thích tuyên ngôn nhưng đây đó, ông cũng đã có những phát biểu về thơ cho lứa tuổi nhi đồng. Có thể quan sát điều đó qua các bài Những bài thơ nho nhỏ và Thêm mấy suy nghĩ về việc làm thơ cho nhi đồng.

            - Khác với nhiều người, Phạm Hổ chọn con đường đi vào thế giới tâm hồn trẻ thơ. “Đối với tôi, được viết cho các em là cả một hạnh phúc”. Rất nhiều lần, ông đã phát biểu như vậy. Tinh thần đó, một lần nữa ta lại bắt gặp trong Những bài thơ nho nhỏ, một bài thơ có tính chất tâm tình về chuyện lập ngôn.  “Suốt đời tôi chỉ mơ / Được viết cho các em / Những bài thơ nho nhỏ”, “Thật đơn sơ là hạnh phúc của tôi/ Được viết cho các em/ Những bài thơ nho nhỏ”. Làm thơ cho lứa tuổi nhi đồng có những đòi hỏi riêng về nguyên tắc sáng tạo. Không phải ngẫu nhiên mà Phạm Hổ lại mơ ước viết nên “những bài thơ nho nhỏ”. Quy mô đó là phù hợp với tầm đón nhận của các em. Nhưng đây là lứa tuổi ưa thích sự đa dạng, mới lạ nên thơ phải “như những hòn bi xanh, đỏ”, “như những quả quýt, quả cam”… vừa gần gũi mà vừa hấp dẫn. Mỗi bài thơ cho các em phải là “ những ô cửa xinh xinh”  mở ra những ô trời xanh để các em “đón hương lúa thơm và tiếng hót chim trời”. Sứ mệnh thơ cho lứa tuổi nhi đồng, theo Phạm Hổ là mang lại cho các em một niềm vui thật sự.

 - Năm 1982, tại Hà Nội, nhân kỷ niệm lần thứ 25 ngày thành lập, nhà xuất bản Kim Đồng đã tổ chức cuộc Hội thảo về “Sáng tác thơ cho thiếu nhi”. Tại Hội thảo này, nhà thơ Phạm Hổ đã đọc tham luận Thêm mấy suy nghĩ về việc làm thơ cho nhi đồng.Trong bài viết này, Phạm Hổ  nêu lên nhiều vấn đề có ý nghĩa đối với người sáng tác. Ông cho rằng, trong thơ cho nhi đồng, nhất thiết phải có hình tượng thiên nhiên. Theo ông, thiên nhiên là hiện thân của cái đẹp. “Bằng chính cái đẹp, thiên nhiên dạy cho ta yêu cái đẹp. Bằng chính sự phong phú, thiên nhiên gợi cho ta nên có cuộc sống phong phú về vật chất, về tinh thần”. Ông cũng đòi hỏi thơ cho lứa tuổi nhi đồng cần phải vui tươi, hấp dẫn. Muốn vậy, nghệ thuật thơ phải có sự biến hóa về nhạc điệu, ngôn từ, màu sắc và hình tượng. Một vấn đề khác cũng được nhà thơ quan tâm là con đường tạo vốn của người viết. “Theo tôi vấn đề vốn vẫn là một trong những vấn đề gốc gác và có tính quyết định nhất”[2]. Phạm Hổ tán đồng hai nguyên tắc mà K.Tsucôpxki: một là học tập vốn cổ, hai là học tập các em, tìm hiểu đời sống tâm hồn các em. Một sự kết hợp hài hòa trên cơ sở hòa giải giữa cảm quan của người lớn với cảm quan tuổi thơ sẽ góp phần vào thành công của nhà thơ.

Thơ Phạm Hổ chính là sự thể hiện sinh động cho những quan niệm nghệ thuật tích cực nói trên của ông.

            2.2. Đi vào thế giới thơ Phạm Hổ, ta bắt gặp tất cả những gì quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày của các em. Đó là cái kéo, cái chổi, dây cầu chì, là con chó, con mèo, là cây na, quả khế …Tất cả đều có mặt trong thơ ông một cách tự nhiên, dung dị. Thực ra, những nhân vật này cũng hiện diện trong sáng tác của hầu hết các nhà thơ viết cho thiếu nhi. Vậy đâu là nét riêng trong nghệ thuật trữ tình của Phạm Hổ?

            - Điều dễ nhận thấy là thơ Phạm Hổ nói nhiều về chủ đề tình bạn. Phạm Hổ thừa nhận: “Tôi đặc biệt chú ý đến tình bạn trong đời sống con người. Trong hơn 10 tập thơ viết cho các em, đã có 6 tập”. Mối quan tâm của tác giả là có cơ sở hiện thực. Trẻ em vốn rất khát khao tình bạn. Kỷ niệm dưới đây của Xuân Quỳnh giúp ta hiểu thêm điều này: “Có lần tôi cãi nhau với một đứa bạn, hai đứa bỏ nhau, không chơi với nhau nữa. Tôi rất buồn… về nói lại chuyện đó với bà tôi, muốn tìm ở bà một lời cảm thông hoặc một cách giải quyết. Thế mà bà tôi lại bảo: “Nó không chơi với cháu thì thôi, cần gì, cháu ở nhà chơi với bà”. Thế là tôi hoàn toàn cô độc. Bà tôi đâu hiểu là tôi cần chơi với bạn ấy bao nhiêu.”[3]. Tâm sự của Xuân Quỳnh phản ánh một khát vọng chung của trẻ em. Chỉ với bạn, các em mới thực sự có được nét đồng điệu trong hoạt động vui chơi, học tập. Hứng thú hoạt động nhờ thế mới được phát huy tối đa, niềm vui mới được trọn vẹn.

            Dấu hiệu nhận biết chủ đề tình bạn trong thơ Phạm Hổ trước hết là ở việc đặt tên cho các tập thơ: Chú bò tìm bạn, Bạn trong vườn, Những người bạn im lặng, Những người bạn ồn ào… Đi vào văn bản, ta thấy cảm hứng tình bạn xuyên thấm ở hầu hết mọi bài thơ, tập thơ. Dù viết về điều gì, Phạm Hổ cũng đều gợi lên cho các em một câu chuyện tình bạn. Một chú bò đi lang thang trong chiều với tiếng “ậm…ò…” đã trở thành hình ảnh đáng yêu trong nỗi thiết tha gọi bạn. Tôi muốn nói đến trường hợp bài thơ Chú bò tìm bạn. Bài thơ này được Phạm Hổ viết vào năm 1952. Gợi nguồn cảm hứng cho nhà thơ là hình ảnh những chú bò chiều chiều ra sông uống nước. Đâu đó trong không gian chiều muộn vang vọng tiếng “ ậm… ò…”. Tứ thơ chợt đến, bài thơ hiện ra sau những thăng hoa của cảm xúc. “Mặt trời rúc bụi tre/ Buổi chiều về nghe mát/ Bò ra sông uống nước/ Thấy bóng mình, ngỡ ai / Bò chào: - kìa anh bạn /Lại gặp anh ở đây! /Nước đang nằm nhìn mây/ Nghe bò cười nhoẻn miệng / Bóng bò chợt tan biến / Bò tưởng bạn đi đâu / Cứ ngoái trước nhìn sau /Am…ò tìm gọi mãi…”. Trong cảm quan dân gian, chú bò là biểu tượng của tính lơ ngơ (Lơ ngơ như bò đội nón). Trong thơ Phạm Hổ, chú bò vẫn có cái lơ ngơ nhưng thật đáng yêu. Đáng yêu ở hành vi biết chào hỏi. Đáng yêu ở hành vi thiết tha gọi bạn…

            Bài thơ Chú bò tìm bạn được xem là tiêu biểu cho phong cách thơ Phạm Hổ. Sau bài thơ này, cảm hứng tình bạn như một dòng chảy tuôn trào mang những hạt phù sa màu mỡ vào cánh đồng thơ Phạm Hổ. Kết quả, cánh đồng thơ ấy cứ lấp lánh lên những sắc màu đáng yêu của tình bạn. Đúng là với Phạm Hổ, thế giới được cấu trúc theo quan hệ tình bạn. Cái rế là bạn của cái chảo, cái nồi. “ Chảo, nồi đang bận nấu - Rế ngồi bên đợi chờ”(Rế). Con chó, con mèo nào có ghét nhau. Chúng chơi với nhau thật thân thiết. “Rủ nhau chơi ú tim – Giờ đến phiên cho trốn – Mèo đảo mắt tìm quanh – Chó nấp đâu giỏi gớm – Bỗng kìa chỗ khe tủ – Chó để lộ cái đuôi – Rón rén mèo đến nơi – Oà chộp ngay lưng bạn …”(Chơi ú tim).

            Xây dựng chủ đề tình bạn là một chủ ý nghệ thuật của Phạm Hổ. Ngoài việc đặt tên cho từng tập thơ theo chủ đề tình bạn, ông cũng kết hợp tạo ra những hệ thống: bạn trong nhà, bạn trong vườn, những người bạn im lặng, những người bạn ồn ào… Tất cả những việc làm này không ngoài mục đích tô đậm cảm hứng tình bạn trong thơ ông.

            - Cùng với nội dung tình bạn, Phạm Hổ còn muốn cung cấp cho các em những hiểu biết ban đầu về thế giới sự vật, hiện tượng. Tuỳ từng trường hợp cụ thể mà ông giới thiệu cho các em tên gọi hay đặc điểm hình thức, ích dụng của sự vật. “Chị ơi, vì sao/ Hoa hồng lại khóc/ Không phải đâu em/ Đấy là hạt ngọc/Người gọi là sương/ Sao đêm gởi xuống/ Tặng cô hoa hồng” (Bướm em hỏi chị). Vẫn là bài thơ về tình bạn nhưng ở đây đã có sự lồng ghép thật tự nhiên một tri thức về đối tượng: giọt nước trên cành hoa hồng được gọi là “giọt sương”. Để mở mang khái niệm về nước, Phạm Hổ viết hẳn một bài thơ khác theo lối định nghĩa. “Nước lên xuống: biển cả/ Nước nằm im: ao hồ/ Nước chảy xuôi: sông suối/ Nước rơi đứng: trời mưa”(Nước)… Nội dung này rất dễ làm cho thơ khô khan. Phạm Hổ biết rõ điều đó. Nhưng  với ý thức “người viết cho thiếu nhi là một nhà văn nhưng đồng thời cũng là một nhà giáo”[4], Phạm Hổ chấp nhận và tìm cách “thơ hóa”. Hướng giải quyết của ông là khai thác tối đa các phép nhân hóa, so sánh, xây dựng các hình ảnh liên tưởng độc đáo và vui tươi. Đọc bài thơ về cái đinh, ta ngỡ như đang tiếp xúc với một cậu bé vui nhộn, tự hào khi làm được một việc tốt. “… Cho chị treo gương/ Cho em treo ảnh/  Xong rồi hóm hỉnh/  Nhô đầu nhìn quanh”(Đinh). Cái chổi khác nào một cô bé thích làm đỏm: “Thích buộc nhiều thắt lưng/ Cả đời không đi dép/ Chổi múa dạo một vòng/  Rác trong nhà biến sạch”(Chổi). Phép so sánh trong trường hợp sau đây giúp các em nắm được đặc điểm của từng đồ vật: “Dao chỉ một lưỡi/ Kéo có đến hai/ Mỗi người một việc/ Ai nào kém ai/  Cả hai đều biết/ Yêu ông đá mài”(Dao và kéo)…Những câu thơ như thế không cầu kỳ, hoa mỹ nhưng tự nhiên, thiết thực. Đặt trong yêu cầu của nghệ thuật giáo dục cho thiếu nhi, hoàn toàn có thể khẳng định, đó là những câu thơ giá trị.   

2.3. Phạm Hổ là một nhà thơ có nhiều tìm tòi trong nghệ thuật thể hiện. Thơ ông đa dạng về hình thức, nhạc điệu vui tươi, ngôn từ trong sáng.

            - Ngoài hình thức tổ chức thông thường, thơ Phạm Hổ còn sử dụng các hình thức khác. Đó là hình thức hỏi – đáp, hình thức định nghĩa và hình thức trích dẫn. Hình thức hỏi - đáp xuất hiện nhiều trong thơ Phạm Hổ. Trong cuộc sống, trẻ em vẫn thường hay hỏi người lớn về nhiều điều. Hay hỏi là một nét tính cách đặc trưng, hệ quả tất yếu của một nhu cầu ham hiểu biết của trẻ. Người lớn trong trách nhiệm của mình cần phải giúp trẻ giải quyết những thắc mắc. Trả lời cho trẻ là cả một nghệ thuật giao tiếp mà không phải ai, lúc nào cũng làm được.  Trong những bài thơ hỏi – đáp của mình, Phạm Hổ khi thì sử dụng nhân vật loài vật, khi thì sử dụng nhân vật con người. Song dù sử dụng loại nhân vật nào thì ông cũng đều nêu ra được vấn đề mà trẻ em quan tâm, đáp án phù hợp với đối tượng. Giọng thơ tâm tình, nhẹ nhàng, có sức thuyết phục lớn. Một ví dụ: “Cua con hỏi mẹ/ Dưới ánh trăng đêm :/  - Cô lúa đang hát/ Sao bỗng lặng im ? Đôi mắt lim dim/ Mẹ cua liền đáp :/ - Chú gió đi xa/ Lúa buồn không hát.(Cua con hỏi mẹ). Bài thơ trên gồm lời hỏi của cua con và lời đáp của cua mẹ. Cua mẹ đã giải thích với cua con rằng, vì chú gió đi xa nên cô lúa buồn, cô thôi không hát nữa. Lời giải thích này dễ được trẻ chấp nhận. Chuyện “cô lúa không hát” thấm đượm tình cảm con người.

            Thực ra, cấu trúc hỏi - đáp được sử dụng nhiều trong thơ cho thiếu nhi. Hình thức này không phải là sáng tạo riêng của Phạm Hổ. Đóng góp của ông là ở chỗ đã sử dụng thành công, tạo ra những bài thơ hay như Ngủ rồi, Bướm em hỏi chị, Đất và hoa, Thỏ dùng máy nói… Sáng tạo riêng của Phạm Hổ chính là ở hình thức thơ định nghĩa và trích dẫn. Bài Nước  vừa dẫn trên là một bài thơ theo hình thức định nghĩa. Dấu hai chấm tương đương với từ « là », tạo ra sự đồng nhất giữa hai đối tượng. Kiểu thơ định nghĩa giới hạn ở chức năng cung cấp khái niệm về đối tượng. Kiểu thơ trích dẫn được xây dựng trên cơ sở mô phỏng lời nói. Thuộc loại thơ này là nhóm bài có câu mở đầu « mẹ, mẹ ơi, cô bảo ». Đơn cử : « Mẹ, mẹ ơi, cô bảo:/ « Cháu ơi, chơi với bạn/ Cãi nhau là không vui/ Cái mồm nó xinh thế/ Chỉ nói điều hay thôi ! ». Ở bài thơ này, câu mở đầu là lời đứa trẻ, các câu còn lại là lời cô giáo được trích dẫn. Toàn bộ bài thơ là lời đứa trẻ nói với mẹ khi ở trường về. Đến trường các em tiếp thu được nhiều điều mới lạ. Khi trở về nhà, các em không quên khoe với mẹ về những gì mà mình học được. Câu thơ « mẹ, mẹ ơi, cô bảo » chất chứa niềm vui, sự háo hức của đứa trẻ. Quả là, đọc những bài như thế, ta cũng dễ vui lây !

            - Những chi tiết hồn nhiên, ngộ nghĩnh được sử dụng nhiều trong thơ Phạm Hổ. Ai đã đọc Ngủ rồi, Chơi ú tim, Ngựa con… hẳn khó có thể quên được những câu nói, những suy nghĩ đáng yêu của con trẻ. Trả lời câu hỏi của mẹ :  « Đã ngủ chưa đấy hả ? », cả đàn gà con nhao nhao : « Ngủ cả rồi đấy ạ ! ». Ngủ rồi  mà vẫn « nhao nhao » thì chỉ có trẻ con mới làm được. Cũng  chỉ trẻ con mới có kiểu lý luận này : « Không mình nấp giỏi thật/ Lỗi chỉ tại cái đuôi ! »(Chơi ú tim)…

Đôi khi, Phạm Hổ cũng đưa cả nét dí dỏm của người lớn vào thơ. Bài thơ Soi gương là một ví dụ. « Có ai đang khóc nhè / Mà soi gương không bố ?/ Một đứa khóc đủ rồi/  Soi chi thành hai đứa ». Bài thơ có cái hồn nhiên của đứa trẻ (câu hỏi), lại có cái hóm hỉnh của người bố (câu trả lời). Chất hồn nhiên, chất dí dỏm kết hợp hài hòa khiến cho bài thơ thêm phần đáng yêu.

            - Làm thơ cho các em, Phạm Hổ cũng rất coi trọng vai trò của nhạc điệu. Ông viết : « Viết thơ cho các em bé, theo tôi, rất cần chú ý đến nhạc điệu. Nhiều khi các em nhớ được là nhờ nhạc điệu »[2,20]. Nhạc điệu của thơ liên quan chặt chẽ tới việc sắp xếp, tổ chức câu thơ, vần và nhịp. Phạm Hổ thường hay sử dụng thể thơ hai, ba, bốn hoặc năm chữ. Nhịp thơ ông thường ngắn, có giá trị miêu tả hiện thực. Chẳng hạn, nhịp 2/2 ở bài Sen nở gợi tả những cánh sen đang từ từ hé mở : « Từ từ / Khẽ mở /  Trăm nghìn / Cửa lụa / Xinh tươi /  Sáng hồng… ». Bài Tàu dài lại gợi hình ảnh đoàn tàu nhiều toa, đang chuyển động một cách nhịp nhàng, đều đặn.

            - Một đặc sắc khác của thơ Phạm Hổ là cách tạo nghĩa mới cho những âm thanh tự nhiên. Tiếng « tí te…tí te » của xe chữa cháy được nhà thơ cảm nhận là tiếng sẵn sàng « có ngay… có ngay »(Xe chữa cháy), tiếng « xạch, xạch, xạch » của máy khâu là « sắp xong rồi, sắp xong rồi »(Máy khâu), còn tiếng « cục tác… cục tác » của cô gà mái là một thông báo vui trứng còn nhiều, đẻ hoài « không hết, không hết »(Gà đẻ)… Cách tạo nghĩa này đã làm cho hình tượng thơ thêm phần sinh động, ý nghĩa. Cuộc sống cứ như đang rộn ràng lên, hối hả và tràn đầy sức sống. Về sau, các nhà thơ như Phạm Đình Ân, Nguyễn Hoàng Sơn… cũng đã học tập cách làm này và đã  tạo thêm nhiều đặc sắc mới cho thơ thiếu nhi. 

3. Trong tương quan với các nhà thơ viết cho thiếu nhi, Phạm Hổ là người viết nhiều và viết hay. Thơ cho lứa tuổi nhi đồng của ông có nhiều đặc sắc về nội dung cũng như nghệ thuật. Nói tới ông là nói tới một nhà thơ của tình bạn, một cây bút với nhiều sáng tạo về hình thức biểu hiện. Ông thực sự có một vị trí quan trọng trong nền thơ cho thiếu nhi Việt Nam.

 

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Trắc nghiệm Ngữ văn Đại học mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư