Ranh giới
Về mặt địa lý, Đông Nam Á có phía Đông Nam giáp lục địa Úc, ranh giới giữa hai khu vực này chạy qua Wallacea. nằm giữa Papua New Guinea và vùng Tây New Guinea của Indonesia (Papua và Tây Papua). Cả hai nước có chung đảo New Guinea.
Khí hậu
Bản đồ Đông Nam Á theo phân loại khí hậu Köppen
Khí hậu Đông Nam Á chủ yếu là nhiệt đới nóng ẩm quanh năm với lượng mưa dồi dào. Miền Bắc Việt Nam và các vùng miền núi của Lào và Myanmar là những khu vực duy nhất ở Đông Nam Á có khí hậu cận nhiệt đới, có mùa đông ôn hòa hơn với nhiệt độ cực đại thấp tới 20 °C hay 68 °F. Phần lớn khu vực Đông Nam Á có mùa khô và ẩm do sự thay đổi theo mùa của gió hoặc gió mùa. Vành đai mưa nhiệt đới gây ra lượng mưa bổ sung trong mùa gió mùa. Rừng nhiệt đới lớn thứ hai trên Trái đất (với rừng nhiệt đới Amazon là rừng nhiệt đới lớn nhất). Các trường hợp ngoại lệ đối với khí hậu và thảm thực vật rừng nhiệt đới này là:
- các khu vực núi ở khu vực phía bắc và các đảo cao hơn, nơi có độ cao dẫn đến nhiệt độ ôn hòa hơn
- “vùng khô hạn” của miền trung Myanmar trong bóng mưa của dãy núi Arakan, nơi lượng mưa hàng năm có thể thấp tới 600 milimét hay 24 inch, dưới nhiệt độ nóng vượt trội là khô đủ để được coi là bán khô hạn.
Đông Nam Á là một trong những khu vực dễ bị tác động do biến đổi khí hậu nhất trên thế giới.[115][116] Biến đổi khí hậu sẽ có ảnh hưởng lớn đến nông nghiệp ở Đông Nam Á như hệ thống thủy lợi sẽ bị ảnh hưởng bởi những thay đổi về lượng mưa và dòng chảy, và sau đó là chất lượng và nguồn cung cấp nước.[117] Biến đổi khí hậu cũng có khả năng đe dọa nghiêm trọng đến ngành thủy sản ở Đông Nam Á.[115] Mặc dù là một trong những khu vực dễ bị tổn thương nhất trước tác động của biến đổi khí hậu trên thế giới, các quốc gia Đông Nam Á đang bị tụt hậu về các biện pháp giảm thiểu khí hậu của họ.[116]
Môi trường
Rồng Komodo ở Vườn quốc gia Komodo, Indonesia
Phần lớn Đông Nam Á nằm trong vùng nhiệt đới ấm, ẩm và khí hậu của vùng này nói chung có thể được đặc trưng là gió mùa. Động vật của Đông Nam Á rất đa dạng; trên các đảo Borneo vtra]], đười ươi, voi châu Á, heo vòi Malayan, tê giác Sumatra và báo mây Bornean cũng có thể được tìm thấy. Sáu loài phụ của binturong hoặc bearcat tồn tại trong khu vực, mặc dù một loài đặc hữu của đảo Palawan hiện được xếp vào loại dễ bị tổn thương.
Hổ thuộc ba phân loài khác nhau được tìm thấy trên đảo Sumatra (hổ Sumatra), ở bán đảo Malaysia (hổ Malayan), và ở Đông Dương (hổ Đông Dương); tất cả đều là những loài có nguy cơ tuyệt chủng.
Rồng Komodo là loài thằn lằn sống lớn nhất và sinh sống trên các đảo Komodo, Rinca, Flores và Gili Motang ở Indonesia.
Đại bàng Philippines
Đại bàng Philippines là loài chim quốc gia của Philippines. Nó được các nhà khoa học coi là loài đại bàng lớn nhất trên thế giới,[118] và là loài đặc hữu của các khu rừng ở Philippines.
Loài trâu nước Châu Á hoang dã, và trên các đảo khác nhau liên quan loài lùn của Bubalus như Anoa đã từng phổ biến ở Đông Nam Á; Ngày nay trâu nước châu Á được nuôi phổ biến khắp vùng, nhưng các họ hàng còn lại của nó là loài quý hiếm và có nguy cơ tuyệt chủng.
Hươu chuột, một loài hươu có ngà nhỏ, lớn bằng chó hoặc mèo đồ chơi, hầu hết có thể được tìm thấy ở Sumatra, Borneo (Indonesia) và quần đảo Palawan (Philippines). Bò tót, một loài bò rừng khổng lồ lớn hơn cả trâu rừng, được tìm thấy chủ yếu ở Đông Dương. Có rất ít thông tin khoa học về các loài lưỡng cư Đông Nam Á.[119]
Các loài chim như công xanh và drongo sống ở tiểu vùng này xa về phía đông như Indonesia. Babirusa, một loài lợn bốn ngà, cũng có thể được tìm thấy ở Indonesia. Chim hồng hoàng được đánh giá cao vì cái mỏ của nó và được sử dụng để buôn bán với Trung Quốc. Sừng của tê giác, không phải một phần của hộp sọ, cũng được đánh giá cao ở Trung Quốc.
Quần đảo Indonesia bị Đường Wallace chia cắt. Đường này chạy dọc theo những gì ngày nay được gọi là ranh giới mảng kiến tạo và phân tách các loài châu Á (phương Tây) với các loài châu Úc (phương Đông). Các đảo giữa Java/Borneo và Papua tạo thành một vùng hỗn hợp, nơi cả hai loại đều xuất hiện, được gọi là Wallacea. Khi tốc độ phát triển tăng nhanh và dân số tiếp tục mở rộng ở Đông Nam Á, mối quan tâm đã tăng lên về tác động của hoạt động con người đối với môi trường của khu vực. Tuy nhiên, một phần đáng kể của Đông Nam Á đã không thay đổi nhiều và vẫn là ngôi nhà chung của các loài động vật hoang dã. Các quốc gia trong khu vực, chỉ với một số ngoại lệ, đã nhận thức được sự cần thiết của việc duy trì độ che phủ của rừng không chỉ để ngăn chặn xói mòn đất mà còn để bảo tồn sự đa dạng của động thực vật. Ví dụ, Indonesia đã tạo ra một hệ thống rộng lớn các vườn quốc gia và các khu bảo tồn cho mục đích này. Mặc dù vậy, những loài như tê giác Java phải đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng, chỉ còn một số ít loài động vật còn lại ở phía tây Java.
Đường giả định của Wallace chia Quần đảo Indonesia thành 2 vùng động vật, hệ động vật Châu Úc và Đông Nam Á. Vùng nước sâu của eo biển Lombok giữa các đảo Bali và Lombok đã tạo thành một rào cản nước ngay cả khi mực nước biển thấp hơn, đã liên kết các hòn đảo hiện đã bị ngăn cách và vùng đất liền ở hai bên
Vùng nước nông của các rạn san hô Đông Nam Á có mức độ đa dạng sinh học cao nhất đối với các hệ sinh thái biển trên thế giới, tại đây có rất nhiều san hô, cá và động vật thân mềm. Theo Tổ chức Bảo tồn Quốc tế, các cuộc khảo sát biển cho thấy sự đa dạng của sinh vật biển ở Raja Ampat (Indonesia) là cao nhất được ghi nhận trên Trái đất. Sự đa dạng lớn hơn đáng kể so với bất kỳ khu vực nào khác được lấy mẫu trong Tam giác San hô bao gồm Indonesia, Philippines và Papua New Guinea. Tam giác San hô là trung tâm của đa dạng sinh học rạn san hô trên thế giới, Verde Passage được Tổ chức Bảo tồn Quốc tế mệnh danh là "trung tâm của trung tâm đa dạng sinh học các loài hải sản biển". Cá nhám voi, loài cá lớn nhất thế giới và 6 loài rùa biển cũng có thể được tìm thấy ở Biển Đông và các vùng lãnh thổ Thái Bình Dương của Philippines.
Cây cối và các loài thực vật khác của vùng là nhiệt đới; ở một số quốc gia có núi đủ cao, thảm thực vật khí hậu ôn hòa có thể được tìm thấy. Những khu vực rừng nhiệt đới này hiện đang bị khai thác, đặc biệt là ở Borneo.
Trong khi Đông Nam Á có hệ động thực vật phong phú, Đông Nam Á đang phải đối mặt với nạn phá rừng nghiêm trọng gây mất môi trường sống cho các loài có nguy cơ tuyệt chủng khác nhau như đười ươi và hổ Sumatra. Các dự đoán đã được đưa ra rằng hơn 40% các loài động thực vật ở Đông Nam Á có thể bị xóa sổ trong thế kỷ 21.[120] Đồng thời, khói mù đã xảy ra thường xuyên. Hai đợt sương mù tồi tệ nhất trong khu vực là vào năm 1997 và 2006, trong đó nhiều quốc gia bị bao phủ bởi khói mù dày đặc, phần lớn là do các hoạt động "đốt nương làm rẫy " ở Sumatra và Borneo. Để phản ứng lại, một số quốc gia ở Đông Nam Á đã ký Hiệp định ASEAN về Ô nhiễm khói mù Xuyên biên giới để chống ô nhiễm khói mù.
Khói mù Đông Nam Á năm 2013 chứng kiến mức độ API đạt đến mức nguy hiểm ở một số quốc gia. Muar đã trải qua mức API cao nhất là 746 vào khoảng 7 giờ sáng ngày 23 tháng 6 năm 2013.[121]
Kinh tế
Cảng Singapore là cảng trung chuyển và container nhộn nhịp nhất trên thế giới, là trung tâm vận tải và hàng hải quan trọng ở Đông Nam Á
Ngay cả trước khi có sự xâm nhập của các quốc gia châu Âu, Đông Nam Á là một phần quan trọng của hệ thống thương mại thế giới. Nhiều loại hàng hóa có nguồn gốc trong khu vực, nhưng đặc biệt quan trọng là các loại gia vị như tiêu, gừng, đinh hương và nhục đậu khấu. Việc buôn bán gia vị ban đầu được các thương nhân Ấn Độ và Ả Rập phát triển, nhưng nó cũng đưa người châu Âu đến khu vực này. Đầu tiên, những người Tây Ban Nha (Manila galleon) đi thuyền từ Châu Mỹ và Vương quốc Bồ Đào Nha, sau đó là người Hà Lan, và cuối cùng là người Anh và người Pháp đã tham gia buôn bán ở nhiều nước khác nhau. Sự xâm nhập của các công ty thương mại châu Âu dần dần phát triển thành việc thôn tính các lãnh thổ, khi các thương nhân vận động chính trị để mở rộng quyền kiểm soát nhằm bảo vệ và mở rộng hoạt động kinh doanh của họ. Kết quả là, người Hà Lan chiếm Indonesia, người Anh chiếm Malaya và một phần của Borneo, người Pháp chiếm Đông Dương, và người Tây Ban Nha và Mỹ chiếm Philippines. Một tác động kinh tế của chủ nghĩa đế quốc này là sự thay đổi hàng hóa được sản xuất. Ví dụ, các đồn điền cao su của Malaysia, Java, Việt Nam và Campuchia, khai thác thiếc ở Malaya, các cánh đồng lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long ở Việt Nam, và đồng bằng sông Irrawaddy ở Miến Điện, là những phản ứng trước nhu cầu mạnh mẽ của thị trường.[122]
Cộng đồng người Hoa ở nước ngoài đã đóng một vai trò lớn trong sự phát triển của các nền kinh tế trong khu vực. Nguồn gốc ảnh hưởng của Trung Quốc có thể bắt nguồn từ thế kỷ 16, khi những người Hoa di cư từ miền nam Trung Quốc đến định cư ở Việt Nam, Indonesia, Thái Lan và các nước Đông Nam Á khác.[123] Dân số Trung Quốc trong khu vực tăng nhanh sau cuộc Cách mạng giải phóng Trung Quốc của Đảng Cộng sản năm 1949, khiến nhiều người tị nạn phải di cư ra ngoài Trung Quốc.[124]
Nền kinh tế của khu vực này phụ thuộc rất lớn vào nông nghiệp; gạo và cao su từ lâu đã là những mặt hàng xuất khẩu nổi bật. Sản xuất và dịch vụ ngày càng trở nên quan trọng hơn.[cần dẫn nguồn] Là một thị trường mới nổi, Indonesia là nền kinh tế lớn nhất trong khu vực này. Các nước mới công nghiệp hóa bao gồm Indonesia, Malaysia, Thái Lan và Philippines, trong khi Singapore và Brunei là những nền kinh tế phát triển giàu có. Phần còn lại của Đông Nam Á vẫn phụ thuộc nhiều vào nông nghiệp, nhưng Việt Nam đang đạt được những tiến bộ đáng kể trong việc phát triển các lĩnh vực công nghiệp.[cần dẫn nguồn] Khu vực này đặc biệt sản xuất hàng dệt may, hàng điện tử công nghệ cao như bộ vi xử lý và các sản phẩm công nghiệp nặng như ô tô.[cần dẫn nguồn] Trữ lượng dầu ở Đông Nam Á rất dồi dào.[cần dẫn nguồn]
17 công ty viễn thông đã ký hợp đồng xây dựng tuyến cáp quang biển Asia-America Gateway để kết nối Đông Nam Á với Mỹ[125] Điều này nhằm tránh sự gián đoạn do việc cắt cáp biển từ Đài Loan đến Mỹ trong trận động đất Hengchun năm 2006.
Cùng với những ngôi đền, Campuchia đã và đang thúc đẩy các khu nghỉ dưỡng ven biển. Đảo ngoài khơi Bãi biển Otres, Sihanoukville, Campuchia
Du lịch đã và đang là yếu tố then chốt trong phát triển kinh tế của nhiều nước Đông Nam Á, đặc biệt là Campuchia. Theo UNESCO, "du lịch, nếu được quan niệm một cách chính xác, có thể là một công cụ phát triển to lớn và là một phương tiện hữu hiệu để bảo tồn sự đa dạng văn hóa của hành tinh chúng ta."[126] Kể từ đầu những năm 1990, "ngay cả các quốc gia ngoài ASEAN như Campuchia, Lào, Việt Nam và Miến Điện, vốn là nơi thu nhập từ du lịch thấp, cũng đang cố gắng mở rộng các ngành du lịch của riêng mình."[127] Năm 1995, Singapore là quốc gia dẫn đầu khu vực về doanh thu du lịch so với GDP ở mức trên 8%. Đến năm 1998, số thu đó giảm xuống dưới 6% GDP trong khi Thái Lan và CHDCND Lào tăng số thu lên hơn 7%. Kể từ năm 2000, Campuchia đã vượt qua tất cả các nước ASEAN khác và tạo ra gần 15% GDP từ du lịch vào năm 2006.[128] Hơn nữa, Việt Nam được đánh giá là một cường quốc đang nổi lên ở Đông Nam Á do có nhiều cơ hội đầu tư nước ngoài và ngành du lịch đang bùng nổ, mặc dù mới được dỡ bỏ lệnh cấm vận thương mại vào năm 1995.
Indonesia là thành viên duy nhất của các nền kinh tế lớn G-20 và là nền kinh tế lớn nhất trong khu vực.[129] Tổng sản phẩm quốc nội ước tính của Indonesia cho năm 2020 là 1.088,8 tỷ USD (danh nghĩa) hoặc 3.328,3 tỷ USD (PPP) với GDP bình quân đầu người là 4.038 USD (danh nghĩa) hoặc 12.345 USD (PPP).[130]
Thị trường chứng khoán ở Đông Nam Á đã hoạt động tốt hơn so với các thị trường khác trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương trong năm 2010, với PSE của Philippines dẫn đầu với mức tăng 22%, tiếp theo là SET của Thái Lan với 21% và JKSE của Indonesia với 19%.[131][132]
Theo ước tính của Quỹ Tiền tệ Quốc tế năm 2020, GDP bình quân đầu người của Đông Nam Á là 4.685 USD, tương đương với Nam Phi, Iraq và Gruzia.[133]