Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Hai mươi câu thơ đầu Kỉ niệm kháng chiến qua đó bộc lộ tình quân dân thắm thiết

Hai mươi câu thơ đầu: Kỉ niệm kháng chiến qua đó bộc lộ tình quân dân thắm thiết
2 trả lời
Hỏi chi tiết
66
0
0
Nguyễn Quang Duy
31/12/2022 16:19:33

Lời nhắn nhủ của người Việt Bắc:

+ Bốn dòng thơ đầu có hai câu hỏi tu từ, người ở lại hỏi người ra đi có còn nhớ “ta” là người nơi đây, hỏi nhớ “núi, nguồn” là nhớ mảnh đất đã từng chung sống, gắn bó 15 năm nghĩa tình. Câu hỏi mượn cớ nhưng thực ra là nhắc nhở, nhắn nhủ người về xuôi đừng quên mảnh đất tình người.

→ Sự tình chung, tình cảm đạo lí. Hiệu quả của nghệ thuật câu hỏi tu từ để bộc lộ cảm xúc người nói, người ở lại kín đáo bộc lộ nỗi nhớ và tình yêu dành cho người về xuôi không phai mờ, trân trọng.

+ Lời giãi bày của nhà thơ, tự nhắc nhở mình

- Tâm sự của người về xuôi trong buổi chia tay

  • Bốn câu tiếp gợi ra khung cảnh chia tay. “Bên cồn gợi địa điểm chia tay ở bến sông nào đó, tiếng hát làm nền, nhân vật người đi kẻ ở bịn rịn, ban tay nắm chặt không rời, xúc động không nói nên lời. Tất cả tạo nên bầu không khí ngập tràn tình cảm, bin rịn, quyến luyến tình quân dân.
  • Từ láy “bâng khuâng, bồn chồn” lột tả tâm trạng xốn xang, xao xuyến vì tình cảm bị níu kéo lại. Diễn tả nỗi lòng thương mến của người ở lại dành cho con người, Việt Bắc.
  • “Áo chàm” hình ảnh ẩn dụ Việt Bắc. Tượng trưng cho tâm hồn chất phác, chân thành, sâu nặng của người Việt Bắc.

- Trong lúc chia tay, khơi gợi lại những tháng ngày gian khổ ở chiến khu

  • “Mưa nguồn suối lũ”: đất trời vần vũ, chìm trong mưa gió bão bùng, sự khắc nghiệt của mùa mưa Việt Bắc khiến cuộc sống trong rừng thêm khó khăn.
  • “Những mây cùng mù” biện pháp chêm xen nhấn mạnh bầu trời u ám nặng nề, gian khổ đè nặng, ẩn dụ những ngày đầu khó khăn của kháng chiến
  • “Miếng cơm chấm muối”: vừa tả thực vừa ước lệch chỉ những thiếu thốn mọi mặt ở chiến khu.
  • Khi gian khổ có nhau đến khi vui sướng người đi kẻ ở, giờ phút chia tay lòng người ở lại bỗng xôn ao vì tiếc nuối nhớ nhung. Biện pháp hoán dụ “rừng núi” chỉ người Việt Bắc, nỗi nhớ thêm kín đáo, đại từ “ai” phong cách dân gian mộc mạc
  • Người Việt Bắc nhắc đến kỉ niệm lịch sử khó quên, tự hào về mảnh đất anh hùng..

⇒ Hình thức đối thoại, đoạn thơ diễn tả tình cảm người Việt Bắc dành cho cán bộ chiến sĩ thắm thiết, mặn nồng.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
Giang
31/12/2022 16:21:12
+4đ tặng

“Việt Bắc” là bài thơ lục bát dài 150 câu thơ của Tố Hữu được sáng tác vào tháng 10 năm 1954, ngày thủ đô Hà Nội được hoàn toàn giải phóng.

“Việt Bắc” là bản hùng ca và tình ca của cách mạng và kháng chiến. Đoạn thơ sau đây dài 20 câu thơ nằm trong phần đầu bài “Việt Bắc”:

Mình về mình có nhớ ta

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa.

Đoạn thơ ghi lại tình cảm của ta khi đưa tiễn mình: mình đi… mình về… Có thể hiểu ta là cô gái Việt Bắc, là đồng bào của dân tộc Việt Bắc; mình là người cán bộ kháng chiến, là anh bộ đội Cụ Hồ. Chữ ta được vây bọc, được quấn quýt trong vòng tay yêu thương của mười hai chữ mình.

Bốn câu thơ mở bài cất lên nghe tha thiết bồi hồi; cảm xúc được nén lại trong lòng bỗng ùa dậy và trào lên. Ta hỏi mình, hay ta đang hỏi lòng ta trong buổi phân li ấy:

Mình về mình có nhớ ta
Mình lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?

Tình nghĩa giữa ta với mình không phải là ngày một ngày hai mà đã giao hòa gắn kết “thiết tha, mặn nồng” trong suốt mười lăm năm trời, kể từ ngày khởi nghĩa Bắc Sơn (1940) đến ngày miền Bắc hoàn toàn giải phóng (tháng 10 – 1954). Cây, núi, sông, nguồn Việt Bắc “mình có nhớ không?”. Câu hỏi tu từ mở ra một trời thương nhớ.

Tố Hữu đã học tập và vận dụng sáng tạo ca dao dân ca, gợi nhớ trong lòng người đọc hai tiếng mình, ta trong những bài hát giao duyên của trai gái làng quê thuở nào: “Mình về có nhớ ta chăng – Ta về ta nhớ hàm răng mình cười”. Chất trữ tình đằm thắm ấy đã tạo nên một nét đẹp trong đoạn thơ, cũng như cả bài thơ.

Bốn câu thơ tiếp theo gợi tả không gian, thời gian và tâm trạng nghệ thuật của người ra đi, của kẻ ở lại. Tiếng hát tha thiết của ai cất lên bên cồn, nơi mé rừng, nơi bờ suối? Hình ảnh hoán dụ “áo chàm” làm nổi bật đối tượng đưa tiễn và màu sắc Việt Bắc. “Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi… Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…” gợi lên nhiều thương nhớ rưng rưng. Các từ láy: “tha thiết, bâng khuâng, bồn chồn” là tâm trạng của mình, của ta:

Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…

Mười hai câu thơ tiếp theo, các cặp từ ngữ: “mình đi” và “mình về” được giao hoán đến ba lần đầy ấn tượng. Điệp ngữ “có nhớ” được láy lại đến năm lần, chốt lại ở các châu lục, tạo nên cảm xúc bâng khuâng, bồn chồn, tha thiết:

Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?

Những gian khổ, thiếu thốn, khó khăn khi cách mạng còn trứng nước, những ngày Bác Hồ mới về nước “nhóm lửa” tại Pắc Bó, Cao Bằng. “Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù” nơi chiến khu giữa vòng vây của giặc Pháp, giặc Nhật đã trở thành kỉ niệm sâu sắc trong lòng kẻ ở người về. “Miếng cơm chấm muối” thuở ấy đã làm cho tình đồng chí, tình đồng đội, tình quân dân thêm sắt son bền chặt, đã soi sáng lí tưởng chiến đấu cứu nước, cứu nhà, đã làm cho mối thù đế quốc thêm “nặng vai” khắc sâu vào xương tủy:

Mày sẽ chết! Thằng giặc Pháp hung tàn
Băm xương thịt mày, tao mới hả.

(Dọn về làng – Nông Quốc Chấn)

Mình về xuôi, mình đi xa để lại bao nhớ thương cho ta, cho người ở lại, cho cảnh vật cỏ cây, núi rừng chiến khu. Rừng núi, trám bùi, măng mai được nhân hoá, mang theo bao nỗi nhớ, bao nỗi buồn thương. Cảnh vật như hoà lệ, Các chữ “rụng”, chữ “già” gợi lên nhiều bơ vơ, man mác, bâng khuâng:

Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.

Làm sao có thể quên được nghĩa tình Việt Bắc trong những tháng ngày gian lao và anh dũng ấy:

Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son

Tố Hữu đã sáng tạo nên những hình ảnh tượng trưng, tương phản (lau xám / lòng son) để ca ngợi đồng bào các dân tộc Việt Bắc. Tuy nghèo khó, thiếu thốn nhưng tình yêu nước, tình cách mạng vẫn thuỷ chung son sắt, vẫn đậm đà. Đây là những vần thơ đẹp nhất, cảm động nhất nói về nỗi nhớ, lòng biết ơn và lòng tự hào đối với Việt Bắc.

Việt Bắc là “đầu nguồn”, là “cái nôi” của cách mạng và kháng chiến, là căn cứ địa của Việt Minh thời kháng Nhật, là Tân Trào, nơi Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân làm lễ xuất kích (tháng 12-1944), là mái đình Hồng Thái, nơi họp Quốc dân đại hội (tháng 8-1945). Việt Bắc là chiến khu bất khả xâm phạm, là thủ đô gió ngàn: “Núi giăng thành lũy sắt dày – Rừng che bộ đội, rừng vây quân”, nên có bao giờ có thể quên:

Mình về, có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa.

Những địa danh lịch sử, núi non, mái đình, cây đa… đã trở thành kỉ niệm sâu sắc trong lòng kẻ ở, người về đối với Việt Bắc:

Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa

Một nét đặc sắc của đoạn thơ là tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật đối xứng rất tài tình. Các câu bát được tạo thành hai vế đối nhau (tiểu đối) làm cho ngôn ngữ thơ hài hòa, mang vẻ đẹp cổ điển:

Nhìn cây nhớ núi, // nhìn sông nhớ nguồn?
Bâng khuâng trong dạ, // bồn chồn bước đi
Mưa nguồn suối lũ, // những mây cùng mù
Miếng cơm chấm muối, // mối thù nặng vai?
Trám bùi để rụng,// măng mai để già
Hắt hiu lau xám, // đậm đà lòng son
Nhớ khi kháng Nhật, // thuở còn Việt Minh
Tân Trào, Hồng Thái, // mái đình, cây đa.

Đoạn thơ trên đây cũng như cả bài thơ, có trường hợp chữ mình xuất hiện đến ba lần trong một câu thơ. Thật không dễ phân biệt rạch ròi chủ thể trữ tình trong ba chữ mình đó. Phải chăng mình cũng là ta, ta cũng là mình, hai tâm hồn đã nương tựa vào nhau:

- Mình đi, mình có nhớ mình

- Mình đi, mình lại nhớ mình.

“Việt Bắc” là đỉnh cao của thơ Tố Hữu, cũng là thành tựu đặc sắc của thơ ca kháng chiến. Đoạn thơ trên đây tiêu biểu cho vẻ đẹp đặc sắc đó.

Ngôn ngữ thơ vừa thấm đẫm trữ tình ca dao, dân ca, vừa mang vẻ đẹp của thi ca cổ điển dân tộc. Tình nghĩa thủy chung của ta với mình, lòng biết ơn, niềm tự hào đối với chiến khu Việt Bắc và đồng bào các dân tộc Việt Bắc đã tạo nên tính nhân dân sâu sắc của bài thơ.

Sau hơn nửa thế kỉ, đọc “Việt Bắc” của Tố Hữu, ta càng xúc động, bồi hồi về điệp ngữ “có nhớ”. “Việt Bắc” là bài ca tình nghĩa thủy chung. Bài ca ấy, bài học ấy cho tuổi trẻ chúng ta thời đổi mới ngày nay niềm tin yêu và sức mạnh để bước vào đời và biết sống đẹp.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập Ngữ văn Lớp 11 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo