1. Lý thuyết của J.M.Keynes về việc làm J.M. Keynes đã viết nhiều tác phẩm, đầu tiên là Tiền tệ và tài chính Ấn Độ, Hậu quả kinh tế của hoà ước (1919), Thuyết cải cách tiền tệ (1923), Hậu quả kinh tế của ngài Churchill (1925), Thuyết tiền tệ (1930). Năm 1926, ông phát biểu bài Sự kết thúc của chủ nghĩa tự do thả nổi. Năm 1933, ông phát biểu bài Con đường đi tới phồn vinh. Nhưng phải tới năm 1936, sau khi tác phẩm Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ (The general theory of employment, interest and money) được xuất bản, thì tư tưởng kinh tế của ông mới được hình thành rõ nét nhất. Tác phẩm đã diễn đạt toàn diện nhất tư tưởng kinh tế của Keynes, được giới kinh tế học phương Tây đánh giá như một cuộc cách mạng trong kinh tế học bởi sự mới mẻ trong tư tưởng kinh tế cũng như bởi sự quan tâm tới tính khả thi của các chính sách kinh tế và sự can thiệp vào tổng cầu. Bối cảnh ra đời tác phẩm chính là cuộc đại khủng hoảng kinh tế (1929-1933). Trước đó, các nhà kinh tế cho rằng, mỗi khi có khủng hoảng kinh tế, giá cả và tiền công sẽ giảm đi; các nhà sản xuất sẽ có động lực đẩy mạnh thuê mướn lao động và mở rộng sản xuất, nhờ đó nền kinh tế sẽ phục hồi. Nhưng Keynes lại quan sát cuộc khủng hoảng và nhận thấy: tiền công không hề giảm, việc làm cũng không tăng, và sản xuất mãi không được phục hồi. Từ đó, Keynes cho rằng thị trường hoàn hảo như các nhà kinh tế học cổ điển vẫn thường quan niệm là không phù hợp nữa. 1.1. Những quan điểm kinh tế chính của Keynes Một số luận điểm chính mà Keynes trình bày trong cuốn Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ gồm: - Tiền công có tính cứng nhắc. Mức tiền công được thỏa thuận giữa chủ và thợ là tiền công danh nghĩa chứ không phải tiền công thực tế và mức tiền công này được ghi trong hợp đồng lao động, được công đoàn và luật pháp bảo vệ. Do đó, mức tiền công không phải là linh hoạt như giới học thuật kinh tế vẫn giả định. Giới chủ chỉ tăng thuê mướn lao động khi tiền công thực tế giảm; mà muốn thế thì tiền công danh nghĩa phải giảm nhiều hơn mức giá chung 1 NCS Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội 2 Phần I: Các lý thuyết kinh tế của nền kinh tế. Song nếu vậy, thì cầu tiêu dùng sẽ giảm, kéo theo tổng cầu giảm. Đến lượt nó, tổng cầu giảm lại làm tổng doanh số giảm, lợi nhuận giảm làm triệt tiêu động lực đầu tư mở rộng sản xuất - việc cần thiết để thoát khỏi suy thoái kinh tế. - Kỳ vọng về giảm tiền công và giá cả sẽ khiến người ta giảm chi tiêu do nghĩ rằng tiền trong túi của mình đang tăng giá trị. Cầu tiêu dùng và tổng cầu giảm. Cứ thế, vòng xoáy đi xuống của nền kinh tế hình thành. - Lãi suất giảm không nhất thiết dẫn tới đầu tư tăng. Lãi suất giảm, nhưng tiết kiệm chưa chắc đã giảm theo do hiệu ứng thu nhập và hiệu ứng thay thế của giảm lãi suất triệt tiêu lẫn nhau. Và khi tiết kiệm không giảm thì đầu tư không tăng. Thêm vào đó, đầu tư cố định là đầu tư có kế hoạch dựa vào những dự tính dài hạn; nên không vì lãi suất giảm mà đầu tư tăng. - Cái quy định lãi suất, nhất là trong ngắn hạn, chính là cung và cầu về tiền. - Lãi suất không nên xuống thấp hơn một mức nào đó, vì ở mức thấp đó, các nhà đầu tư không còn muốn giữ trái phiếu mà chuyển sang giữ tiền mặt, tạo nên tình trạng tiết kiệm quá mức trong khi đầu tư lại thiếu. Cầu đầu tư giảm sẽ khiến tổng cầu giảm theo. - Có thể đạt được mức cân bằng ngay cả khi có thất nghiệp. - Thắt chặt chi tiêu trong thời kỳ khủng hoảng chỉ làm cho khủng hoảng thêm trầm trọng. Khi kinh tế suy thoái, chính phủ nên đẩy mạnh chi tiêu nhằm tăng tổng cầu như một chính sách chống suy thoái. Do vậy, chính phủ nên sử dụng các chính sách chống chu kỳ, chứ đừng trông mong vào sự tự điều chỉnh của thị trường. Những tư tưởng chính này đã trở thành hòn đá tảng trong kinh tế học Keynes. Ông phê phán kinh tế học cổ điển và tân cổ điển, đưa ra các lý luận quan trọng về hàm tiêu dùng, về nguyên lý số nhân, về hiệu suất biên của vốn và về sự ưa thích tính thanh khoản.