LH Quảng cáo: lazijsc@gmail.com

Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Chiến dịch Việt Bắc - Thu Đông năm 1947 đã chứng tỏ điều gì trong quá trình so sánh lực lượng giữa ta và Pháp

Chiến dịch Việt Bắc - Thu Đông năm 1947 đã chứng tỏ điều gì trong quá trình so sánh lực lượng giữa ta và Pháp.
1 trả lời
Hỏi chi tiết
72
1
0
Tiến Dũng
01/04/2023 05:28:47
+5đ tặng

1. Nắm chắc tình hình, chỉ đạo sát sao công tác chuẩn bị, sẵn sàng đối phó thắng lợi với các cuộc tiến công lớn của địch. Bước vào Hè - Thu năm 1947, trước những động thái của địch, như: tập trung quân ra Bắc, tăng cường trinh sát đường không, huấn luyện quân dù,…; Trung ương Đảng và Bộ Tổng chỉ huy đã phán đoán tương đối sát âm mưu chiến lược của chúng. Ngày 19-5-1947, trên cơ sở đánh giá, kết luận tình hình, Thường vụ Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị về tích cực chuẩn bị chiến dịch mùa Đông, trong đó nhấn mạnh: phải “chuẩn bị chống các cuộc quân địch đánh xuyên mũi dùi, đánh vòng thật rộng, hay nhảy dù, đổ bộ sau lưng ta”. Đây là Chỉ thị có tầm quan trọng đặc biệt trong việc chuẩn bị cho cuộc đối đầu quy mô lớn. Quán triệt Chỉ thị của Đảng, Hội nghị quân sự toàn quốc (tháng 9-1947) xác định: bằng mọi giá phải phá kế hoạch tiến công của địch; kiên quyết nắm vững bộ đội, giữ gìn chủ lực, gắng tiêu diệt từng bộ phận lực lượng địch, bảo vệ căn cứ, v.v. Đây là những nét lớn, tuy còn sơ khai về phương hướng tác chiến chiến lược, nhưng có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn to lớn, làm cơ sở cho các khu, địa phương chủ động làm công tác chuẩn bị, sẵn sàng đánh địch. Nét nổi bật về chỉ đạo chiến lược trong giai đoạn này còn được thể hiện, lần đầu tiên Bộ Tổng chỉ huy xác định một cách cụ thể phương hướng tác chiến và mối quan hệ giữa bộ đội chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương. Theo đó, các khu phát động du kích chiến rộng khắp, nhưng phải tích cực tìm cơ hội đánh vận động chiến để tiêu diệt địch, phải chủ động và kiên quyết tiến công ở quy mô thích hợp, tránh tư tưởng giữ đất, phòng ngự chính diện thụ động, khô cứng. Như vậy, với tầm nhìn chiến lược, bằng sự phân tích một cách khoa học, Trung ương Đảng đã nhận định, đánh giá đúng tình hình, nhất là về địch và đề ra phương thức tác chiến chiến lược phù hợp. Thực tế Chiến dịch Việt Bắc - Thu Đông năm 1947 đã chứng minh sự chỉ đạo của Đảng và Bộ Tổng chỉ huy trong giai đoạn chuẩn bị Chiến dịch là hoàn toàn chính xác. Nhờ đó, mặc dù địch huy động lực lượng lớn, mở cuộc hành binh bất ngờ lên Việt Bắc nhưng đã vấp phải thế trận chiến tranh nhân dân độc đáo của ta, bị sa lầy và thất bại. Sau này, nhiều nhà nghiên cứu đều thống nhất cho rằng, sự chỉ đạo chiến lược của Đảng trước khi Chiến dịch diễn ra đã góp phần quan trọng vào chiến thắng Việt Bắc - Thu Đông năm 1947.

2. Kịp thời chỉ đạo chuyển hóa thế trận tác chiến linh hoạt, sáng tạo để bẻ gãy từng gọng kìm quân địch, giành thắng lợi. Trong Chiến dịch Việt Bắc - Thu Đông năm 1947, mặc dù ta đã dự kiến: địch có thể liều lĩnh tiến công lên Việt Bắc, nhưng chưa phán đoán đúng khả năng và thủ đoạn hành binh mạo hiểm của địch, nên công tác chuẩn bị có phần sơ khoáng, dẫn đến những lúng túng, bị động ban đầu. Hơn nữa, thông qua một số trận chiến đấu chống quân địch đổ bộ đường không ở khu vực Bắc Cạn cho thấy, trình độ tổ chức chỉ huy, trang bị và khả năng chiến đấu của bộ đội ta còn hạn chế, nhất là trong đối phó với bộ binh cơ giới địch và các vị trí nhảy dù đã được củng cố của chúng. Trước tình hình đó và trên cơ sở nắm chắc được kế hoạch hành binh của địch, Bộ Tổng chỉ huy đã kịp thời chỉ đạo điều chỉnh thế trận Chiến dịch một cách linh hoạt, sáng tạo, bảo đảm sự liên hoàn, vững chắc. Theo đó, ta không triển khai thế trận đánh địch tập trung lớn, mà tiến hành điều chỉnh thế bố trí và tổ chức lực lượng, hình thành 03 mặt trận đánh địch chủ yếu: Mặt trận Sông Lô - Đường số 2, Mặt trận Bắc Cạn - Đường số 3 và Mặt trận Cao Bằng - Đường số 4 nhằm đánh vào điểm yếu sinh tử của chúng là cơ động, vận tải tiếp tế trên quãng đường dài, xa căn cứ và ở vùng rừng núi hiểm trở. Trên từng mặt trận, ta tổ chức lực lượng hợp lý, bảo đảm có lực lượng tại chỗ, có lực lượng cơ động, tạo nên thế trận chủ động đánh địch rộng khắp và tập trung vào mục tiêu chủ yếu. Đây là sự chỉ đạo đúng đắn, kịp thời và hết sức sáng tạo, phù hợp với điều kiện địa bàn, trình độ tác chiến của bộ đội và so sánh lực lượng địch - ta lúc bấy giờ. Với thế trận này, ta đã tránh được cái mạnh của địch (quân đông, trang bị, vũ khí hiện đại), phát huy được sức mạnh, sở trường của ta (đánh gần, nhỏ lẻ, bất ngờ) để làm suy yếu, tiến tới bẻ gãy từng gọng kìm của địch. Điều đáng nói là, trong chỉ đạo chiến lược, Bộ Tổng chỉ huy đã chú trọng chỉ đạo các lực lượng thực hiện tốt việc cài thế chiến dịch linh hoạt, có lợi cho ta, bảo đảm vừa có thể tiêu hao, tiêu diệt địch rộng khắp, có trọng điểm, trên bộ, trên sông và cô lập địch đổ bộ đường không, vừa tạo ra thế ngăn chặn địch trên từng hướng, phá ý đồ hợp vây của chúng. Đồng thời, sẵn sàng chuyển sang truy kích địch khi chúng rút chạy. Diễn biến Chiến dịch cho thấy, việc chỉ đạo chuyển hóa thế trận của Bộ Tổng chỉ huy đã tạo ra sức mạnh to lớn, bước chuyển biến căn bản để đánh địch, nhất là tạo ra thế đánh hiểm, bất ngờ,… cho các lực lượng, đạt hiệu suất chiến đấu cao, góp phần khoét sâu mâu thuẫn của địch: giữa yêu cầu tiếp tế, bảo vệ tiếp tế với tập trung lực lượng hành quân thọc sâu, hợp điểm, khiến địch bị sa lầy và thất bại.

Như vậy, mặc dù lúc đầu bị bất ngờ về hành động liều lĩnh của địch, nhưng nhờ bản lĩnh và tài thao lược, khả năng ứng phó nhanh nhạy với tình huống khẩn trương trên chiến trường, Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng với Bộ Tổng chỉ huy kịp thời chỉ đạo nhanh chóng khắc phục thiếu sót ban đầu, tổ chức lại thế trận phản công, làm thay đổi cục diện chiến trường, tạo thế trận đánh địch có lợi nhất.

3. Chỉ đạo vận dụng cách đánh linh hoạt, sáng tạo, đánh bại hoàn toàn cuộc hành binh quy mô lớn của địch. Ngay sau khi thực dân Pháp mở cuộc tiến công lên Việt Bắc, Thường vụ Trung ương Đảng nhận định: cuộc tiến công này của địch chứng tỏ chúng không mạnh, chỉ ồ ạt lúc đầu, phải dàn quân mỏng,… là dịp tốt để ta đánh khi chúng đang vận động, xa căn cứ. Quán triệt tinh thần đó, Bộ Tổng chỉ huy đã nghiên cứu, đánh giá kỹ tình hình các mặt để chỉ đạo vận dụng cách đánh cho phù hợp. Theo đó, Bộ chỉ đạo các khu phải phát động rộng rãi chiến tranh du kích, bất ngờ đánh những trận nhỏ dọc theo đội hình, tiêu hao lực lượng để phân tán, kìm chân và gây tâm lý hoang mang cho địch. Đồng thời, ta điều chỉnh lực lượng, kết hợp chặt chẽ giữa bộ đội, dân quân, du kích làm nhiệm vụ tại chỗ với các tiểu đoàn cơ động của Chiến dịch, tổ chức các trận tác chiến tập trung; dùng hình thức phục kích là chính, với quy mô nhỏ, nhằm vào các đơn vị nhỏ của địch đang vận động làm mục tiêu chủ yếu, v.v. Bằng cách đánh đó, ta đã khoét sâu chỗ yếu cơ bản của địch khi thoát ly công sự, thoát ly sự chi viện của hỏa lực, nhất là của pháo binh để tiêu diệt gọn từng bộ phận, từng bước vô hiệu hóa, tiến tới bẻ gãy từng gọng kìm của chúng. Cách đánh sáng tạo này đã được Chiến dịch vận dụng đồng loạt trên toàn chiến trường Việt Bắc, cả ở môi trường trên bộ, trên sông và địch đổ bộ đường không, đạt hiệu suất chiến đấu cao. Điển hình là các trận: phục kích tàu địch trên sông Lô bằng pháo binh (ngày 23-10-1947), ta đánh chìm 02 tàu địch, đánh hỏng 02 chiếc khác; trận phục kích đèo Bông Lau trên Đường số 4 (ngày 30-10-1947), ta diêu diệt cả đoàn xe 30 chiếc (có cả xe thiết giáp), thu nhiều vũ khí, trang bị của chúng, Đường số 4 thành “con đường tử thần” của địch, v.v. Không chỉ phục kích đánh hiểm, bất ngờ địch ở trên sông và trên các tuyến giao thông huyết mạch, các đơn vị còn chớp thời cơ thực hiện nhiều trận tập kích tiêu diệt gọn quân địch, như: trận Tiểu đoàn 102 diệt gọn 01 đại đội ứng viện ở Lục Rã (ngày 29-11-1947) và trận diệt hơn 100 tên địch ở quán Ông Già (Thái Nguyên) của hai đại đội thuộc Trung đoàn 174 (ngày 01-12-1947), v.v. Các hoạt động tác chiến rộng khắp đó đã tạo điều kiện thuận lợi để Mặt trận Đường số 3 vừa đánh địch, vừa tổ chức sơ tán, di chuyển cơ quan Trung ương, kho tàng, cơ xưởng về nơi an toàn,…; chỉ đạo nhân dân thực hiện “vườn không nhà trống”, làm cho các đợt tiến công của địch đều như “đánh vào chỗ không người”; nhưng lại bị ta bất ngờ đánh vào bên sườn, phía sau, gây cho địch tổn thất nặng nề. Như vậy, với quy mô phổ biến là các trận đánh cấp đại đội và tiểu đoàn, kết hợp khéo léo giữa bộ binh đánh địch trên bộ với pháo binh đánh địch trên sông, nhằm vào các đơn vị nhỏ của chúng đang cơ động hoặc tạm dừng, ta đã tiêu diệt từng bộ phận quân địch, làm cho chúng muốn cơ động nhanh cũng không được, tìm cơ quan đầu não và chủ lực ta để đánh cũng không ra, mà lại luôn bị đánh bất ngờ, tổn thất nghiêm trọng. Đây là cách đánh rất sáng tạo, được Bộ Tổng chỉ huy chỉ đạo Chiến dịch vận dụng khéo léo, đạt hiệu quả chiến đấu cao; là yếu tố trực tiếp làm cho ý đồ “chơi ván bài cuối cùng” của tướng Va-luy (Tổng chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương) hoàn toàn tan vỡ.

Chiến thắng Việt Bắc - Thu Đông năm 1947 là dấu mốc lịch sử quan trọng của đất nước, bài học kinh nghiệm quý báu, tạo cơ sở cho quân và dân ta giành thắng lợi trong các chiến dịch kế tiếp sau này. Đã 70 năm trôi qua, nhưng chiến thắng oanh liệt đó còn nguyên giá trị đối với sự phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam nói riêng, sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay nói chung.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập Lịch sử Lớp 9 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư