Tình phụ tử là thứ tình cảm vô cùng thiêng liêng và cao cả. Nếu tình mẫu tử là "nước trong nguồn" êm ái, nhẹ nhàng thì tình cảm cha dành cho con là "núi Thái Sơn", vĩ đại, mạnh mẽ, bền bỉ và dài lâu. Với sự chiêm nghiệm đó, Nguyễn Quang Sáng đã viết tác phẩm Chiếc lược ngà, một truyện ngắn gây xúc động lòng người về tình cảm của cha con ông Sáu và bé Thu trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt. Vỏn vẹn trong vài ngày ông Sáu về thăm nhà, đoạn trích ngắn từ câu chuyện đã lấy đi bao nước mắt người đọc, thấu cảm về tình cha con, tình yêu thương gia đình máu mủ ruột già không gì có thể so sánh được và đặc biệt là tình cảm bền bỉ bé Thu dành cho người cha của mình.
Được sáng tác vào năm 1966, khi tác giả vừa là nhà văn, vừa là người lính tham gia chiến trường Nam Bộ, tác phẩm lấy bối cảnh tại một vùng quê sông nước. Ông Sáu, người lính dạn dày lão luyện có dịp về thăm nhà trong mấy ngày nghỉ phép. Tạm xa cảnh đạn bom loạn lạc, ông về với vợ và bé Thu - con gái ông. Nhưng thật éo le, cô con gái ông mới chỉ gặp một lần nhất định không chịu nhận cha, thậm chí còn hỗn láo, ruồng bỏ ông. Trong hoàn cảnh như vậy, người đọc không chỉ thấy được tình cảm mãnh liệt hai cha con giữ trọn cho nhau mà còn có những giọt nước mắt thương cảm cho cuộc sống quá đỗi khó khăn, vất vả, li tán của thời kì cách mạng. Tình cảm của bé Thu dành cho cha, tình yêu của ông Sáu dành cho con không được thốt bằng lời, nhưng từng suy nghĩ, từng cử chỉ hành động của hai nhân vật đều cho thấy, tình phụ tử thiêng liêng không thể bị chiến tranh bào mòn mà chính những chia cắt, những khổ đau ấy đã góp phần khẳng định sự mãnh liệt của sợi dây gia đình.
Người đọc rất dễ ấn tượng bởi cô bé Thu vừa tinh nghịch, hiếu động, cứng đầu, vừa yêu thương cha da diết. Sống với má, ba đi chiến đấu xa nhà, cô bé chỉ được nhìn thấy mặt qua tấm ảnh nhỏ hai người chụp chung. Trong kí ức của bé Thu, ba luôn là người đàn ông trong ảnh, là một người lính anh dũng qua lời kể của bà. Tình cảm cô dành cho cha tự nhiên được nuôi nấng dần dần, cô bé mong được gặp ba, mong được nhìn thấy ba ngoài đời thực như bước ra từ tấm ảnh chân dung. Cũng chính vì vậy, khi giáp mặt với ông Sáu, nay có một vết thẹo dài trên mặt do lăn lộn ngoài chiến trường, cô bé Thu vô cùng sợ hãi và bối rối. Không phải một đứa trẻ lao vào lòng ba sau tám năm đằng đẵng cách trở, không phải tiếng gọi thân thương đáng ra phải bật thốt ngay từ khi hai người gặp nhau, bé Thu tỏ rõ thái độ lạnh nhạt "chớp mắt nhìn như muốn hỏi", sắc mặt "bỗng tái đi" và thậm chí là bỏ chạy và kêu "Má! Má". Đối với em, ba của em không hề có vết thẹo dài "đỏ ửng, giật giật" lên mỗi khi xúc động, nên khi nhìn thấy ông Sáu tự xưng là ba mình, em nhất định cự tuyệt và chối bỏ. Cái ngây thơ, hồn nhiên nhưng cũng rất bảo thủ khiến người đọc vừa buồn cười, vừa thấy sống mũi cay cay. Cười vì cái tính cách trẻ con mà dứt khoát, đanh thép, nhất định không chịu gọi người lạ mặt là cha, buồn vì đồng cảm với nỗi đau của ông Sáu khi con không chịu nhận mình, buồn vì hoàn cảnh chiến tranh đã chia rẽ tình cha con nồng nàn thắm thiết.
Sau cuộc gặp gỡ không như mong đợi, ông Sáu hiểu được sự thiếu thốn về mặt tình cảm của con nên càng ra sức cố gắng chăm sóc Thu, tìm cách được ở gần con nhiều hơn. Nhưng ông càng cố, bé Thu càng khước từ.
Trong hoàn cảnh tiến thoái lưỡng nan, khi được mẹ giao nhiệm vụ chắt nước nồi cơm, vì nồi cơm to không thể bắc xuống được, ai cũng nghĩ cô bé Thu buộc phải gọi ba để nhờ ông Sáu giúp. Nhưng không, sau cái nhìn "dáo dác" là câu nói trống không: "Cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái!". Ngay cả khi ông Sáu không giúp đỡ để khiến bé Thu bật ra câu gọi ba, cô bé chấp nhận lấy cái gáo múc từng chút nước, "miệng lẩm bẩm điều gì đó không rõ" chứ không hề hé miệng nhận ông Sáu là ba mình. Được mẹ bảo gọi ba vào ăn cơm, cô bé cũng nói trổng "Vô ăn cơm!", "Cơm chín rồi!". Những câu nói không chủ không vị ấy có thể là những lời xấc xược, nhưng sâu thẳm trong đó là niềm tin, là tình yêu của bé Thu dành cho cha. Cô bé tin rằng, ba mình phải là người đàn ông trong ảnh, còn người đang ngồi trong nhà với vết sẹo đáng sợ kia không phải ba, nên dù thế nào, cô cũng nhất định từ chối gọi. Tình cảm mãnh liệt ấy được đẩy lên cao trào qua chi tiết bé Thu hất đổ cả chén cơm khi ông Sáu gắp cho nó cái trứng cá. Thu "lấy đũa xoi vào chén, để đó rồi bất thần hết cái trứng cá ra, cơm văng tung tóe cả mâm". Sau cái đánh vào mông và lời quát giận dữ của ông Sáu, bé Thu không khóc la mà chỉ "ngồi im, đầu cúi gằm xuống", "cầm đũa, gắp lại cái trứng cá để vào chén, rồi lặng lẽ đứng dậy bước ra khỏi mâm" và đi sang nhà bà ngoại, không quên "làm cho dây lòi tói khua rổn rảng thật to". Sự đấu tranh tư tưởng của bé gái tám tuổi khiến người đọc có chút rung mình. Một bé gái nhỏ tuổi lại có tính cách mạnh mẽ, gan góc đến như vậy. Nhận được sự quan tâm của người tự xưng là cha, cô bé không hề nao núng, cũng không hề tâm sự, hỏi mẹ rằng tại sao người lạ kia lại ở nhà mình mà nhất định không chịu mở lòng. Trong tâm niệm của cô, cha chỉ có một, và dù có ai đối xử tốt với cô bé thế nào cũng không thể thay thế bóng hình quen thuộc qua tấm ảnh mờ cũ kĩ cô nhìn thấy. Tiếng "ba" cao cả và thiêng liêng ấy em sẽ không thể dễ dàng dành cho ai khác, tình cảm độc nhất của em dành cho ba không gì có thể thay thế được. Hành động của cô bé không hề hỗn hào, đáng ghét mà trái lại, rất nhân văn và đậm tình người. Một cô bé bướng bỉnh nhưng hiểu chuyện, tôn trọng tình cảm và yêu ba da diết như vậy thật đáng được ngợi ca.
Tình cảm của bé Thu đối với cha đã lấy đi không ít nước mắt người đọc ở những chi tiết cuối truyện, khi ông Sáu chuẩn bị lên đường trở lại chiến khu. Sau một đêm ở nhà bà ngoại, được bà giải thích, kể chuyện, cô bé "lăn lộn", "thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn". Có lẽ em đang tự trách mình, rằng tại sao lại không hỏi mẹ, hỏi bà về vết sẹo trên mặt ba, rằng tại sao bản thân lại hư đốn, làm ba đau lòng, rằng tại sao không gọi một tiếng "ba" ngay kho ông Sáu trở về. Nỗi ân hận dẫn đến hành động cụ thể, hành động quyết định lớn lao của một cô bé ngây thơ, trong sáng. Về tới nhà, nhìn mọi người đến rất đông, mẹ thì tất bật chuẩn bị gói ghém đồ đạc, cô bé "lúc đứng vào góc nhà", "lúc đứng tựa cửa", vẻ mặt "sầm lại buồn rầu, cái vẻ buồn trên gương mặt ngây thơ", nhìn ba "với vẻ nghĩ ngợi sâu xa". Nghe những câu nói cuối cùng của ông Sáu, bé Thu bỗng "kêu thét lên" tiếng "Ba...a...a...ba!" đầy cảm động, như "xé sự im lặng", tiếng "Ba" cố đè nén trong bao nhiêu năm, tiếng "Ba" như vỡ tung trong lòng. Cô bé ương bướng mới chỉ hôm qua còn ngang ngạnh biết mấy, giờ lại "dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó", "nói trong tiếng khóc", :hôn tóc, hôn cổ", "hôn vai" và "hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa". Tình cảm thầm lặng nuôi dưỡng trong suốt tám năm nay đã được bộc lộ, Giữa hai cha con, chẳng còn bom đạn nào, chẳng có khoảng cách nào có thể chia rẽ được nữa. Không muốn rời xa ba, bé Thu dùng cả tay, cả chân "câu chặt lấy ba" cùng câu nói trong tiếng nức nở:" Không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con!". Một tình cảm trong trẻo và chân thật, một thái độ khác hoàn toàn với bé Thu ương bướng, cô bé yêu cha biết mấy, thương cha biết nhường nào, nhưng giờ đây khi hai cha con được gặp nhau cũng là lúc ông Sáu phải quay trở lại tập kết. Tiếng gọi của trái tim, tình phụ tử có muộn màng nhưng thật sự mãnh liệt và quý báu.
Cả tuổi thơ thiếu thốn tình thương của cha, cô bé chỉ biết nuôi trong mình một khát khao được gặp, được nhìn thấy ba bằng xương bằng thịt. Không nhận ông Sáu là ba cũng chỉ vì ông trông không giống người ba mà em tưởng tượng, đến khi hiểu thấu mọi chuyện, tiếng lòng của em gọi "ba" sao mà đắng cay, thê lương đến thế. Chiến tranh đã chia cắt biết bao gia đình, vợ mất chồng, mẹ mất con, con mất cha,... nỗi đau ấy được khắc họa trọn vẹn qua tình cảm của cô bé. Chẳng dám mong mỏi đến ngày hai ba con được cùng nhau đi chơi trong cảnh hòa bình, bé Thu gọi ba trong nước mắt, trong sự chứng kiến của những người làng xóm thân thiết. Tình cảm vĩ đại ấy có lẽ không thể tàn phai trong lòng độc giả. Từ tiếng gọi, tiếng khóc cho đến ánh mắt mênh mông xao động của bé Thu sẽ mãi đọng lại, như một minh chứng mãnh liệt cho tình cha con bền bỉ và vững vàng giữa những người cùng chung huyết thống.
Khai thác tâm lý nhân vật khéo léo và chuyên sâu cùng sự am hiểu diễn biến cảm xúc nhân vật, tác giả đã thổi hồn vào cô bé Thu những tính cách điển hình của một bé gái, có hiếu động, có ngang bướng, có kiên cường và có cả tình yêu cha chân thành. Đọc Chiếc lược ngà, tình cảm giữa hai cha con có lẽ là thành công lớn nhất mà tác giả truyền tải được, đặc biệt là tình cảm của bé Thu dành cho ông Sáu. Người ta như thấy chính mình trong nhân vật, cũng như thấy chính con mình trong hình tượng bé Thu, gần gũi, sinh động, đáng yêu mà đáng quý.
Truyện ngắn Chiếc lược ngà khép lại, tuy không phải là kết thúc có hậu nhưng lại vô cùng hạnh phúc. Tiếng gọi "ba" trong tâm khảm được cất lên là lời khẳng định đanh thép về tình cảm cha con ruột thịt cháy bỏng. Đồng thời, qua đây, tác giả lên án chiến tranh tàn khốc, cuộc chiến phi nghĩa đã chia cắt biết bao gia đình, gây ra tình huống éo le, đau đớn cho bao nhiêu đứa trẻ, bao nhiêu người cha, người mẹ. Nguyễn Quang Sáng không chỉ kể đến tình người, tình cảm giàu đẹp giữa hoàn cảnh khó khăn, gian nan nhất của dân tộc mà còn là đạo lý, đạo làm người, đạo làm con cái đối với cha mẹ một tình thương, sự tôn trọng và biết ơn sâu sắc.