Bằng cách nhấp vào Đăng nhập, bạn đồng ý Chính sách bảo mật và Điều khoản sử dụng của chúng tôi. Nếu đây không phải máy tính của bạn, để đảm bảo an toàn, hãy sử dụng Cửa sổ riêng tư (Tab ẩn danh) để đăng nhập (New Private Window / New Incognito Window).
3.2.1. Cơ chế chính sách của Nhà nước
Nắm bắt được xu thế phát triển mạnh mẽ của cuộc CMCN 4.0, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 4 tháng 5 năm 2017 về việc “Tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4” trong đó nêu rõ đẩy mạnh phát triển du lịch thông minh (Thủ tướng Chính phủ, 2017). Đây là tiền đề để các doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư vào lĩnh vực du lịch ứng dụng công nghệ kỹ thuật hiện đại.
3.2.2. Hệ thống đào tạo, bồi dưỡng NNLDL
Cơ sở đào tạo, dạy nghề du lịch các cấp trình độ đã và đang được hình thành và mở rộng, đa dạng về loại hình sở hữu, cấp đào tạo, dạy nghề. Theo số liệu của Viện Nghiên cứu Phát triển du lịch, hiện có 284 cơ sở tham gia đào tạo du lịch, trong đó có 62 trường đại học, 80 trường cao đẳng, 117 trường trung cấp, 2 công ty đào tạo và 23 trung tâm đào tạo nghề. Điều này cho thấy, lực lượng lao động trong lĩnh vực du lịch đang dần được chuẩn hóa, được trang bị kiến thức và kỹ năng cho quá trình hội nhập và phát triển (Lan Hương, 2016). Phân bố cơ sở đào tạo du lịch tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn, như: Hà Nội, TP. HCM, Đà Nẵng, Nha Trang,… Bên cạnh đó, chất lượng đào tạo giữa các cơ sở dạy nghề còn có sự chênh lệch về trình độ giảng viên, hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật, điều kiện thực hành thực tập nghề nghiệp,… Đây chính là một trong những lý do khiến chất lượng NNLDL không đồng đều giữa các địa phương.
3.2.3. Ứng dụng công nghệ thông tin và CMCN 4.0
Việt Nam là quốc gia có lượng người dùng Internet cao thứ 12 trên thế giới và đứng thứ 6 trong tổng số 35 quốc gia/vùng lãnh thổ thuộc khu vực châu Á. CMCN 4.0 với sự xuất hiện của công nghệ thực tế ảo và tương tác thực tại ảo đòi hỏi hệ thống đào tạo phải thay đổi chương trình và phương thức đào tạo. Chương trình đào tạo du lịch hiện nay vẫn còn thiên về giảng dạy lý thuyết, chậm đổi mới, nội dung chương trình đào tạo hiện nay vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu và xu thế lao động CMCN 4.0 (Lan Hương, 2016).
3.2.4. Liên kết đào tạo với doanh nghiệp du lịch và chủ động hội nhập
Có thể kể đến những doanh nghiệp lớn, như: Viettel đã kí kết với Tập đoàn FLC để tối ưu các dịch vụ cho khách hàng như dịch vụ hàng không, dịch vụ khách sạn, dịch vụ giải trí - golf, phân phối vé máy bay thông qua các kênh bán hàng trực tiếp,… cho các khu nghỉ dưỡng. Việc các doanh nghiệp chủ động hợp tác các dự án về hạ tầng công nghệ an ninh, an toàn mạng, hệ thống thanh toán thương mại, đặt phòng điện tử đã tạo sức cạnh tranh lớn cho du lịch Việt Nam.
3.2.5. Đội ngũ giảng viên và chất lượng đào tạo
- Đội ngũ giảng viên giảng dạy: Trong điều kiện hội nhập, ngoài yếu tố tích hợp tiêu chuẩn trong nước và quốc tế đối với chuyên môn nghiệp vụ, thì khả năng sử dụng thành thạo ngoại ngữ và công nghệ thông tin để nâng tầm trong công tác giảng dạy là yêu cầu bắt buộc đối với giảng viên. Tuy nhiên, phần lớn số lượng giảng viên ở các trường có đào tạo về du lịch được đào tạo từ các ngành khác, việc giảng dạy về du lịch chủ yếu dựa vào vốn kiến thức tự học, tổng hợp từ nhiều nguồn, từ kinh nghiệm. Đội ngũ giảng viên nghề chưa đồng đều về trình độ và năng lực,... Đây là một điểm yếu đối với đội ngũ giảng dạy.
- Kỹ năng mềm: Du lịch là ngành dịch vụ, ngoài vấn đề về kiến thức chuyên môn thì kỹ năng mềm là một trong những yêu cầu bắt buộc đối với NNLDL. Thiếu trải nghiệm thực tế và thiếu kỹ năng mềm như kỹ năng xử lý công việc, kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin, kỹ năng giao tiếp,… là điều mà hầu hết các nhà tuyển dụng đều nhìn thấy ở nhân lực du lịch Việt Nam hiện nay. Theo Ngân hàng Thế giới (WB) đánh giá chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay chỉ đạt mức 3,39/10 điểm,... Nhiều cơ quan, doanh nghiệp nhận sinh viên vào làm phải mất từ 1 đến 2 năm để đào tạo lại, chưa đáp ứng được yêu cầu công việc,… (Đinh Việt Phương, 2017).
- Chất lượng lao động, năng suất làm việc, chất lượng NNLDL còn nhiều hạn chế, thiếu lao động lành nghề, nhất là các chuyên gia đầu ngành, trình độ ngoại ngữ, kỹ năng tay nghề vẫn chưa đáp ứng được tốc độ phát triển. Nhân lực được đào tạo du lịch tại vùng sâu, vùng xa tiếp tục thiếu và yếu sẽ là thách thức lớn khi phát triển các khu du lịch mới, việc đào tạo cho dân tộc thiểu số gặp nhiều trở ngại về ngôn ngữ, văn hóa,… Việt Nam có giá nhân công rẻ, nhưng năng suất lao động thấp hơn so với các quốc gia trong khu vực. Nguyên nhân chủ yếu kể đến là lao động chưa được đào tạo bài bản, chất lượng và hiệu quả lao động chưa đáp ứng được nhu cầu,…
3.2.6. Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ giảng dạy
Đào tạo du lịch là đào tạo nghề, bên cạnh đó, thời đại CMCN 4.0, công nghệ phục vụ du lịch phát triển nhanh và thay đổi theo từng ngày nên rất cần các cơ sở thực hành, thực tế. Tuy nhiên, các trang thiết bị kỹ thuật phục vụ đào tạo thường rất đắt tiền và nhanh chóng thay đổi khiến các cơ sở đào tạo thường khó theo kịp sự phát triển của ngành, dẫn đến việc đào tạo du lịch đang phổ biến tình trạng “tay không bắt giặc”. Điều này ảnh hưởng lớn tới chất lượng nguồn lao động do không thể bắt kịp với nhu cầu của công việc.
Tham gia Cộng đồng Lazi trên các mạng xã hội | |
Fanpage: | https://www.fb.com/lazi.vn |
Group: | https://www.fb.com/groups/lazi.vn |
Kênh FB: | https://m.me/j/AbY8WMG2VhCvgIcB |
LaziGo: | https://go.lazi.vn/join/lazigo |
Discord: | https://discord.gg/4vkBe6wJuU |
Youtube: | https://www.youtube.com/@lazi-vn |
Tiktok: | https://www.tiktok.com/@lazi.vn |
Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi
Vui | Buồn | Bình thường |