1. Giới thiệu chung
- Tác giả: Kim Lân (1920-2007) quê Từ Sơn - Bắc Ninh. Sáng tác văn học từ trước năm 1945 và là nhà văn có sở trường về truyện ngắn. Đề tài chủ yếu tác giả thường viết đó là sinh hoạt làng quê và những cảnh ngộ của người nông dân
- Tác phẩm: sáng tác trong thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, lần đầu tiên đăng trên báo văn nghệ năm 1948.
2. Phân tích văn bản
a. Tình huống truyện
Làng của Kim Lân đã xây dựng được một tình huống truyện giàu kịch tính. Ông Hai Thu định ở lại làng cùng du kích chiến đấu giữ làng, nhưng vì hoàn cảnh gia đình ông phải cùng vợ con rời bỏ làng đi tản cư. Ở nơi tản cư ông luôn nhớ làng, kể chuyện, khoe làng với người dân trên đó. Bỗng một hôm, ông nghe tin cả làng Dầu của ông theo giặc Pháp làm Việt gian. Ông đau khổ, cả gia đình ông buồn rầu, tủi nhục. Ông chủ tịch tìm đến và cải chính với ông là làng theo kháng chiến. Ông sung sướng khoe nhà ông bị Pháp đốt cháy rụi. Tác giả diễn tả cụ thể sự mâu thuẫn, giằng xé tâm can, nỗi ám ảnh nặng nề biến thành sự sợ hãi thường xuyên trong ông Hai cùng với nỗi đau xót, tủi hổ của ông trước cái tin làng mình theo giặc. Qua tình huống này, hình ảnh một lão nông dân tha thiết yêu làng quê của mình, một lòng một dạ theo kháng chiến hiện ra sắc nét, với chiều sâu tâm lí, ngôn ngữ mang đậm màu sắc cá thể hoá.
b. Diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai:
Hoàn cảnh ông Hai:
- Là một người nông dân quanh năm gắn bó với lũy tre làng
- Một người yêu làng nhưng phải rời làng đi tản cư
+) Trước khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc:
- Ông luôn tự hào, đau đáu nhớ về làng của mình. Tuy phải chạy giặc tới nơi khác để sinh sống nhưng ông luôn cập nhật tinh hình chiến sự ở ngôi làng của mình: hằng ngày luôn đến phòng thông tin nghe ngóng tình hình về ngôi làng của mình dù cho mình không biết chữ.
- Ông khoe về làng: giàu và đẹp, lát đá xanh, có nhà ngói san sát sầm uất như tỉnh, phong trào cách mạng diễn ra sôi nổi, chòi phát thanh cao bằng ngọn tre
+) Diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc:
- Khi vừa nghe tin làng chợ Dầu theo giặc, ông không tin vào tai mình, hỏi đi hỏi lại, lầm lũi trở về nhà như người mất hồn
- Khi về tới nhà, ông dằn vặt trong những suy nghĩ nội tâm, tự hỏi rồi tự trả lời, nhìn đàn con thơ xót xa: “chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi đấy ư?”=> Nỗi cay đắng tủi nhục, uất hận trước tin làng theo giặc
- Khi trò chuyện với vợ ông Hai bực bội, gắt gỏng vô cớ, đau đớn, trằn trọc thở dài rồi lo lắng → chân tay rủn ra,nín thở, lắng nghe không nhúc nhích.
- Suốt mấy ngày sau đó ông không dám đi đâu, chỉ nằm nhà nghe ngóng tình hình trong sự sợ hãi, lo lắng,luôn bị ám ảnh về chuyện làng theo Tây. Cứ thấy một đám đông túm lại … ông cũng chột dạ … “thoáng nghe những tiếng Tây Việt gian … lủi ra một góc nhà , nín thít. Thôi lại chuyện ấy rồi!”
- Gia đình ông không biết sẽ sống nhờ ở đâu, tâm trạng của ông lúc này thật bế tắc tuyệt vọng.
- Có ý nghĩ “Hay là quay về làng” nhưng “vừa chớm nghĩ như vậy, lập tức phản đối ngay” … “nước mắt ông dàn ra. Về làng … làm nô lệ cho thằng tây .. thế rồi ông quyết định “ Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”.
=> Tình cảm tự do tình cảm cách mạng, lòng yêu làng, yêu nước đã thực sự hoà quện trong tâm hồn ông. Mối mâu thuẫn trong nội tâm và tình thế của nhân vật dường như đã thành sự bế tắc, đòi hỏi phải được giải quyết.
+) Tâm trạng của ông Hai khi nghe tin làng được cải chính:
Thái độ ông Hai thay đổi hẳn:
- “cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”
- mồm bỏm bẻm nhai trầu, mắt hấp háy
- Chạy đi khoe khắp nơi về làng của mình
⇒ Vui mừng tột độ, tự hào, hãnh diện khi làng không theo giặc, cũng đồng thời thấy được tình yêu làng, yêu nước của người nông dân như ông Hai
B. Phân tích chi tiết nội dung bài học
1. Trước khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc:
Cũng như biết bao người dân quê khác, ông Hai gắn bó sâu lặng với nơi chôn rau cắt rốn của mình - làng chợ Dầu.
- Ông tự hào về làng của mình lắm, ông hay nói về sự giàu có, trù phú của làng mình với một niềm say mê và náo nức lạ thường: “Hai con mắt ông sáng hẳn lên, cái mặt biến chuyển…”. Trong mắt ông cái gì của làng Dầu cũng hay cũng khéo, nào là con đường làng lát toàn đá xanh, trời mưa trời gió thì sạch mà trời nắng phơi rơm rạ thì chả cái gì bằng được, nào là cái sinh phần của cụ Thượng,…Trong tất cả các câu chuyện của ông luôn luôn có đề tài về nơi “chôn rau cắt rốn” và cũng chỉ khi ấy trông ông mới trở nên sáng sủa, tinh nhanh. Quả thật, niềm hãnh diện về chốn “quê cha đất tổ” ở con người này thật hồn nhiên, trong sáng.
- Ông nhớ làng, nhớ về phong trào kháng chiến của làng quê, muốn về làng, muốn cùng anh em đào đường đắp ụ, xẻ hào, khuân đá.v.v.. Ông thường ra phòng thông tin nghe đọc báo, nghe ngóng tin về làng Chợ Dầu của ông. Dù cho ông không biết đọc nhưng ngày ngày tới phòng đọc báo để nghe ngóng tin tức về làng mình