Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Lập dàn ý phân tích

LẬP DÀN Ý PHÂN TÍCH BÀI THƠ LỄ XƯỚNG DANH KHOA ĐINH DẬU
2 trả lời
Hỏi chi tiết
179
Tham khảo câu trả lời từ Trợ lý ảo Lazi
I. Giới thiệu bài thơ "Lễ xướng danh Khoa Đinh Dậu"
- Tác giả: Nguyễn Du
- Thể loại: Thơ lễ
- Năm sáng tác: 1813

II. Nội dung bài thơ
1. Phần mở đầu
- Tác giả tả cảnh lễ xướng danh Khoa Đinh Dậu diễn ra trong không gian trang nghiêm, trọng thể.
- Sự hiện diện của các quan chức, quân sĩ, dân chúng tạo nên không khí trang trọng và hân hoan.

2. Phần miêu tả về Khoa Đinh Dậu
- Khoa Đinh Dậu là một người tài giỏi, có đức và tinh thần cao cả.
- Ông đã có nhiều đóng góp to lớn cho đất nước và nhân dân.
- Tác giả ca ngợi lòng trung thành và tận tụy của Khoa Đinh Dậu đối với triều đình và vua chúa.

3. Phần miêu tả về lễ xướng danh
- Lễ xướng danh được tiến hành trong không gian trang nghiêm, trọng thể.
- Các quan chức và quân sĩ đều mặc áo lễ, đeo mũ lễ.
- Dân chúng đứng xếp hàng, trang nghiêm chờ đợi lễ xướng danh.
- Lễ xướng danh được tiến hành bằng cách đọc danh sách tên của Khoa Đinh Dậu và công lao của ông.

4. Phần kết thúc
- Tác giả kết thúc bài thơ bằng lời chúc tụng và cầu nguyện cho Khoa Đinh Dậu.
- Tác giả hy vọng rằng công lao và đức độ của Khoa Đinh Dậu sẽ được truyền tụng và ghi nhớ mãi mãi.

III. Ý nghĩa bài thơ
- Bài thơ "Lễ xướng danh Khoa Đinh Dậu" thể hiện lòng tôn kính và biết ơn của tác giả đối với Khoa Đinh Dậu, một người tài giỏi và tận tụy với triều đình và vua chúa.
- Bài thơ cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc truyền tụng và ghi nhớ công lao của những người có đóng góp to lớn cho đất nước và nhân dân.
- Tác giả mong muốn rằng công lao và đức độ của Khoa Đinh Dậu sẽ được truyền tụng và ghi nhớ mãi mãi, làm gương cho những người sau này.
0
1
Nguyễn Thế Ngọc
04/12/2023 20:26:16
+5đ tặng

1. Mở bài

Dẫn dắt, giới thiệu về văn bản Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu.

2. Thân bài

a. Giới thiệu về khoa thi năm Đinh Dậu

- Theo lệ thường “Nhà nước ba năm mở một khoa”: Ba năm có một khoa thi thi Hương.

- Điều khác thường:

  • “Trường Nam thi lẫn với trường Hà”: “Trường Nam” là trường thi ở Nam Định, “Trường Hà” là trường thi ở Hà Nội. Đó là hai trường thi Hương ở Bắc kì thời xưa. Nhưng khi thực dân Pháp đánh chiếm Hà Nội thì trường thi ở đây bị bãi bỏ, các sĩ tử ở Hà Nội phải xuống thi chung ở trường Nam Định.
  • Từ “lẫn” cho thấy quang cảnh bát nháo, lẫn lộn của trường thi. Điều đó làm mất đi vẻ trang nghiêm của kì thi Hương.

b. Cảnh trường thi trong thực tế

Sĩ tử “lôi thôi, vai đeo lọ” gợi dáng vẻ luộm thuộm, nhếch nhác.

Quan trường “ậm ọe, miệng thét loa”: sự ra oai, nạt nộ nhưng đó là vẻ bên ngoài.

=> Từ đó cho thấy cảnh thi cử lúc bấy giờ thật nhốn nháo, không còn theo quy củ. Cảnh trường thi đã gián tiếp phản ánh sự suy vong của một nền học vấn, sự lỗi thời của đạo Nho.

  • Quan sứ: “Lọng cắm rợp trời quan sứ đến”: cho thấy sự đón tiếp trọng thể.
  • Mụ đầm: “Váy lê quét đất mụ đầm ra” cho thấy lối ăn mặc diêm dúa, phô trương.
  • Nghệ thuật đối: lọng - váy, trời - đất, quan sứ - mụ đầm nhằm mỉa mai, châm biếm hạ nhục bọn quan lại, thực dân.

=> Sự có mặt của quan sự đáng lẽ ra phải khiến quang cảnh trường thi trở nên trang nghiêm hơn. Nhưng trái lại, sự xuất hiện này càng khiến cho sự nhếch nhác, tùy tiện được bày ra rõ ràng hơn.

c. Thái độ, tâm trạng của nhà thơ

- Câu hỏi tu từ “Nhân tài đất Bắc nào ai đó”: thức tỉnh các sĩ tử về nỗi nhục mất nước. Kẻ thù xâm lược vẫn còn đó, thì đường công danh này có ý nghĩa gì.

- Tâm trạng, thái độ: sự tủi nhục, xót xa trước thực tại đau đớn của nước nha.

=> Bài thơ đã khắc họa khung cảnh trường thi nhốn nháo, để làm bật lên tiếng cười chua chát về cảnh ngộ mất nước.

3. Kết bài

Khẳng định giá trị của bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
2
0
Lê Nhi
05/12/2023 08:24:32
+4đ tặng

1. Mở bài

Giới thiệu tác giả Trần Tế Xương và dẫn dắt vào bài Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu.

2. Thân bài

a. Hai câu đề

Nhà nước ba năm mở một khoa: lời thông báo, giới thiệu của tác giả về quy định bình thường của lệ thi cử nước nhà xưa nay.

Trường Nam thi lẫn với trường Hà: Vốn là hai nơi khác nhau, hai trường thi khác nhau, nhưng năm nay thí sinh của hai trường này lại ngồi trộn lẫn với nhau.

Từ "lẫn" diễn tả khung cảnh nhốn nháo, ô hợp của trường thi, đối lập với sự trang nghiêm cần có trong một kì thi hương quan trọng của triều đình.

→ Dẫn dắt vào bối cảnh của kì thi một cách tài tình, độc đáo, phần nào phản ánh được thực trạng kì thi lúc bấy giờ.

b. Hai câu thực

Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ: Sĩ tử" là những người đi thi, đáng ra phải trông thật nho nhã, trang trọng, vậy mà ở đây toàn thấy là sự luộm thuộm, lôi thôi. Đảo chữ "lôi thôi" lên đầu câu để nhấn mạnh cái sự nhếch nhác của các sĩ tử trong mùa thi hương lần này → gợi lên sự xiêu vẹo, sự đổ gãy, lếch thếch của những kẻ sau này vốn sẽ trở thành những trụ cột tương lai của đất nước.

Ậm ọe quan trường miệng thét loa: Cái âm thanh "ậm ọe" ấy chỉ là những thanh âm ú ớ, không rõ tiếng rõ lời, nhưng lại được gân lên bằng sự la lối của đám quan lại trường thi. Sự trang trọng trong việc gọi tên vào thi của kì thi hương ấy đã bị những kẻ làm quan kia lấn át, làm lu mờ bởi sự phách lối, vênh váo của những kẻ dựa hơi mà chẳng có chút thực quyền nào.

→ Hai câu thơ đối nhau làm nổi bật lên khung cảnh của trường thi. Nhưng trong đó, người ta thấy không chỉ là bóng dáng của trường thi với kì thi hương mà còn thấy khung cảnh hỗn tạp, nhốn nháo của đất nước khi rơi vào tình nửa thực dân nửa phong kiến.

c. Hai câu luận

Hình ảnh của một "ông Tây" với "bà đầm" phản ánh thật đúng với cái tình cảnh của nước ta thời bấy giờ: người dân trở thành nô lệ, triều đình là một bức bình phong còn thực quyền ở trong tay người Pháp.

Tú Xương đặt cái "váy" của bà đầm và cái "lọng" của ông quan Tây được đặt ngang bằng, ghép hai hình ảnh đó lại, người ta thấy đó là mỉa mai đầy châm biếm

Từ "quan sứ" để nói về ông quan tây nhưng lại dùng từ "mụ đầm" khi nói về vợ của ông ta, đây chẳng phải là một sự khinh bỉ, một sự "chơi xỏ" mà Tú Xương dành cho viên Toàn quyền Pháp.

d. Hai câu kết

"Đất Bắc" vốn là từ chỉ Hà Nội, là nơi hội tụ của ngàn năm kinh đô, là nơi của bậc đế vương ngự trị.

"Nhân tài" ở đây là một từ phiếm chỉ, là những kẻ đã từng một lần mơ ước được bước qua cánh cửa thi hương này và cũng là những kẻ đã từng đặt chân đến đây hãy nhìn xem "cảnh nước nhà".

→ Lời thơ như một tiếng than đau xót vô vàn của Tú Xương khi mắt phải nhìn thấy đất nước đang dần rơi vào tay giặc.

3. Kết bài

Khái quát lại giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ; đồng thời nêu lên cảm nghĩ của bản thân.

Lê Nhi
Nếu thấy hay nhớ like + chấm điểm nhé

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư