Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Ngữ văn - Lớp 8
08/12/2023 17:46:34

Viết 1 bài thơ trào phúng

Viết 1 bài thơ trào phúng 
3 trả lời
Hỏi chi tiết
Trợ lý ảo
92
Tham khảo câu trả lời từ Trợ lý ảo Lazi
Trào phúng là một loại thể thơ mang tính chất châm biếm, mỉa mai và trào lộng. Dưới đây là một bài thơ trào phúng:

Ngày xưa có một ông béo
Đến từ vùng đất của tiền nhiều
Ông ta tự xưng là quan to
Nhưng thực chất chỉ là một thằng ngu.

Ông ta đi khắp nơi trên thế giới
Tự cho mình là người tài ba, thông minh
Nhưng ai cũng biết ông ta chỉ là một kẻ ngu ngốc
Điều đó không cần phải giải thích.

Ông ta thường tỏ ra kiêu ngạo
Nhưng thực chất chỉ là sự tự phụ
Ông ta không biết rằng mình chỉ là một con lừa
Mà người ta đã biết từ lâu.

Ông ta thường nói dối và lừa dối
Nhưng không ai tin vào những lời ông ta nói
Vì mọi người đã biết rõ
Rằng ông ta chỉ là một kẻ vô duyên.

Vậy nên hãy cười nhạo ông ta
Vì ông ta không xứng đáng được tôn vinh
Ông ta chỉ là một kẻ ngu ngốc
Mà người ta đã biết từ lâu.
0
0
ds hoa ki
08/12/2023 17:52:00
+5đ tặng

Tú Xương là một nhà thơ với nhiều tác phẩm nổi tiếng. Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu là một trong những bài thơ trào phúng tiêu biểu của tác giả.

Mở đầu, tác giả đã giới thiệu đôi nét về khoa thi Đinh Dậu - có thật trong lịch sử:

“Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.”

Việc thi cử được tổ chức nhằm tuyển chọn nhân tài ra giúp vua. Nhưng trong hoàn cảnh thực dân Pháp xâm lược, nắm giữ chính quyền thì việc thi cử đã có nhiều thay đổi. Dù vẫn còn thi chữ Hán theo lộ cũ “ba năm mở một khoa” nhưng kì thi lại hết sức hỗn tạp: “Trường Nam thi lẫn với trường Hà”. Ở Bắc Kì vốn có hai trường thi Hương là “trường Nam” trường thi Nam Định và “trường Hà” - trường thi ở Hà Nội. Nhưng thực dân Pháp đã đánh chiếm Hà Nội, cho bỏ trường thi ở Hà Nội. Các sĩ tử Hà Nội phải xuống thi chung ở trường Nam Định.

Tiếp đến, hai câu thực đã miêu tả cảnh nhập trường và xướng danh hiện lên vô cùng khôi hài:

“Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm ọe quan trường miệng thét loa.”

“Sĩ tử” vốn là những người thuộc tầng lớp trí thức trong xã hội phong kiến, theo nghiệp bút nghiên nên mang phong thái nho nhã. Nhưng hình ảnh “sĩ tử” ở đây lại hiện lên thật lôi thôi, nhếch nhác. Cách sử dụng biện pháp tu từ đảo ngữ, đưa từ láy “lôi thôi” lên đầu câu thơ đã gây ấn tượng mạnh cho người đọc. Không chỉ vậy, khung cảnh trường thi lúc này không còn là chốn tôn nghiêm mà trở nên ồn ào, chẳng khác nào cảnh họp chợ nên quan trường mới “ậm oẹ” và “thét loa” - những người coi thi cũng chẳng còn cái phong thái nghiêm trang, trịnh trọng vốn có. Qua chi tiết này, người đọc cười đấy mà cũng buồn đấy trước tình cảnh đất nước lúc bấy giờ.

“Lọng cắm rợp trời: quan sứ đến;
Váy lê quét đất, mụ đầm ra.”

Một kì thi mang tính trọng đại của đất nước. Nhưng hình ảnh xuất hiện ở đây - “lọng cắm rợp trời” gợi tả cảnh đón tiếp dành cho “quan sứ” - lũ cướp nước đầy long trọng. Không chỉ vậy, từ xưa, chốn trường thi là nơi tôn nghiêm, lễ giáo phong kiến vốn trọng nam khinh nữ, phụ nữ không được đến. Vậy mà bây giờ lại có hình ảnh “mụ đầm ra” với “váy lê quét đất” càng làm tăng thêm sự nực cười. Qua chi tiết này, chúng ta thấy được sự suy thoái của đất nước lúc bấy giờ.

Cuối cùng, tác giả đã bộc lộ tâm trạng trước tình cảnh của đất nước lúc bấy giờ:

“Nhân tài đất Bắc nào ai đó?
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.”

Câu hỏi tu từ “nhân tài đất Bắc nào ai đó” nhưng không nhằm mục đích biết câu trả lời. Đó là một lời thức tỉnh các sĩ tử về nỗi nhục mất nước. Kẻ thù xâm lược vẫn còn đó, thì đường công danh này có ý nghĩa gì.

Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu đã khắc khắc họa khung cảnh trường thi nhốn nháo, để làm bật lên tiếng cười chua chát về cảnh ngộ mất nước trong buổi đầu của xã hội thực dân nửa phong kiến.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng ký tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
0
0
Nguyễn Linh Chi
08/12/2023 18:02:36
+4đ tặng
 
 
Phần thứ hai (câu cuối cùng) là nhận xét có tính chất trào lộng thâm thúy của người tù Hồ Chí Minh về tình trạng của bộ máy cai trị ở Lai Tân. Người đọc chờ đợi gì ở câu kết luận này ? Chắc hẳn phải là một sự lên án quyết liệt. Nhưng tác giả đã không làm như thế mà lại hạ một câu có vẻ rất khách quan: Trời đất Lai Tân vẫn thái bình. Đòn đả kích bất ngờ mà sâu cay lại nằm 
 
 
Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học (thơ trào phúng) - Lai Tân
 
Nhật kí trong tù là tập nhật kí bằng thơ do Hồ Chí Minh viết ròng rã hơn một năm trời trong các nhà tù của chính quyền Tưởng Giới Thạch ở tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Trước hết, đây là tập thơ Bác viết cho chính mình, với mục đích: Ngày dài ngâm ngợi cho khuây, Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do mà Bác đã viết ở bài Khai quyển đầu cuốn sổ tay. Vì thế mà Bác ghi lại vắn tắt những điều tai nghe mắt thấy làm cho mình trăn trở, suy nghĩ và xúc cảm trong suốt mười bốn tháng bị giam cầm. Lai Tân là bài thơ thứ 97, Bác làm sau khi bị chuyển lao từ Thiên Giang đến Lai Tân. Đằng sau bức tranh tả thực có vẻ như rất khách quan là thái độ mỉa mai, châm biếm và phê phán của người tù Hồ Chí Minh đối với giai cấp thống trị ở Lai Tân nói riêng và chế độ xã hội Trung Quốc đương thời nói chung.
 
Phiên âm chữ Hán:
 
Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc,
 
Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh.
 
Chong đèn, huyện trưởng làm công việc,
 
Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.
 
Bức tranh về hiện thực ở nhà tù Lai Tân và một phần xã hội Trung Quốc thu nhỏ đã được Hồ Chí Minh phản ánh sinh động trong bài thơ thất ngôn tứ tuyệt ngắn gọn mà ý nghĩa vô cùng hàm súc. Thành công của bài thơ là nghệ thuật châm biếm sắc sảo, độc đáo kết hợp với giọng điệu tự sự xen lẫn trữ tình và một kết cấu chặt chẽ, hợp lý.
 
Kết cấu bài thơ gồm hai phần nhưng khác với cấu trúc thông thường của tứ tuyệt Đường luật ở chỗ: phần thứ nhất gồm ba câu, còn phần thứ hai chỉ có một câu. Ba câu thơ đầu chỉ đơn thuần kể việc. Điểm nút chính là câu thứ tư bởi nó làm bật ra toàn bộ tư tưởng của bài thơ và làm bung vỡ tất cả cái ý châm biếm mỉa mai của người tù Hồ Chí Minh trước sự thối nát đến tận xương tủy của đám quan chức trong giai cấp thống trị.
 
Ở phần thứ nhất, Hồ Chí Minh đã phác họa thần tình chân dung của ba nhân vật “quan trọng”. Ban trưởng nhà lao công khai đánh bạc ngày này qua ngày khác, trong khi: Đánh bạc bên ngoài quan bắt tội. Cảnh trưởng thì trắng trợn ăn tiền đút lót của tù nhân, còn huyện trưởng thì đêm đêm chong đèn… hút thuốc phiện. Chính những kẻ đại diện cho chính quyền, cho luật pháp lại ngang nhiên vi phạm pháp luật. Điều trái ngược ấy đã vượt ra khỏi khung cảnh của một nhà tù, trở thành tính chất tiêu biểu cho cả xã hội Trung Hoa thời ấy: Quan trên trì trệ, vô trách nhiệm, hưởng lạc; cấp dưới thì chỉ lo xoay xở kiếm ăn quanh, mặc cho mọi tệ nạn cứ tự do hoành hành. Hơn thế, điều đáng mỉa mai là chính bọn quan lại tham lam, nhũng nhiễu ấy đã “tích cực” góp phần làm gia tăng tệ nạn xã hội. Ba nhân vật đang hoạt động như trong một màn hài kịch câm và cả ba đang thủ vai một cách hết sức “nghiêm túc” giữa khung cảnh thái bình (?!) dưới sự thống trị của họ Tưởng. Câu thơ miêu tả ngắn gọn mà lại hàm ý mỉa mai sâu sắc, tố cáo tình trạng lộn xộn, bát nháo của xã hội Trung Quốc lúc đó.
 
Phần thứ hai (câu cuối cùng) là nhận xét có tính chất trào lộng thâm thúy của người tù Hồ Chí Minh về tình trạng của bộ máy cai trị ở Lai Tân. Người đọc chờ đợi gì ở câu kết luận này ? Chắc hẳn phải là một sự lên án quyết liệt. Nhưng tác giả đã không làm như thế mà lại hạ một câu có vẻ rất khách quan: Trời đất Lai Tân vẫn thái bình. Đòn đả kích bất ngờ mà sâu cay lại nằm ngay trong câu nhận xét tưởng như là ca ngợi ấy.
 
Hiệu quả đả kích của câu thơ như thế nào? Hoá ra tình trạng thối nát của bọn quan lại ở Lai Tân không phải là chuyện bất thường mà là chuyện bình thường. Bình thường đến nỗi đã trở thành bản chất, thậm chí đã thành “nề nếp” được chấp nhận từ lâu.
 
Câu kết tưởng chừng có vẻ hết sức “vô tư” kia ai ngờ lại ẩn giấu một tiếng cười mỉa mai, châm biếm, lật tẩy bản chất xấu xa của bộ máy thống trị ở Lai Tân. Tính từ thái bình có thể xem là “thần tự”, “nhãn tự" của bài thơ. Nhà thơ Hoàng Trung Thông đã có một lời bình
 
thật chính xác và thú vị: “Một chữ thái bình mà xâu táo lại bao nhiêu việc làm trên vốn là muôn thuở của giai cấp bóc lột thống trị Trung Quốc. Chỉ một chữ ấy mà xé toang tất cả sự thái bình dối trá nhưng thực sự là đại loạn bên trong”.
 
Bài thơ Lai Tân in đậm bút pháp nghệ thuật chấm phá truyền thống của thơ Đường. Lời thơ ngắn gọn, súc tích, không cầu kì câu chữ, nhưng chỉ với bốn câu thơ ngắn, người tù Hồ Chí Minh đã phơi bày bản chất của cả chế độ Tưởng Giới Thạch suy thoái, mục nát. Sức chiến đấu, chất “thép” của bài thơ nhẹ nhàng mà thâm thúy chính là ở đó.
 
 
 
 
0
0
KHẢI NGUYỄN ĐỨC
10/12/2023 12:48:27
+3đ tặng

Tú Xương tên thật là Trần Tế Xương (1870-1907), sinh ra và lớn lên tại số nhà 247 phố Hàng Nâu thành phố Nam Định, ông là một trong những nhà thơ tiêu biểu của văn học trung đại Việt Nam. Thơ của ông mọi người chú ý tới bởi sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố hiện thực, trào phúng và trữ tình. Trong tác phẩm của ông hầu hết nội dung đều nói về khoa cử, nho học và hình ảnh một nền nho học đang thoái hóa và cảnh nghèo khó của dân trong hoàn cảnh đất nước. Ngoài ra, ông còn nổi tiếng là thể loại trào phúng, châm biếm chế độ phong kiến mục nát, bọn thực dân Pháp tàn ác, quan lại, tay sai cho giặc. Ông luôn đứng về phía người dân nghèo. Những tác phẩm tiêu biểu: Vịnh khoa thi Hương, Giễu người thi đỗ, Ông cò, Phường nhơ, Thương vợ, Văn tế sống vợ,...Tiêu biểu cho thơ văn của Trần Tế Xương ta có thể kể đến bài thơ “Đất Vị Hoàng”.

Vị Hoàng là tên cũ của làng quê Tú Xương, đó cũng là tên dòng sông đào chảy qua làng. Sông Vị trước năm 1894 có vị trí đặc biệt với tỉnh Nam Định và cả vùng đồng bằng Bắc Bộ. Lúc chưa có cảng biển Hải Phòng, Nam Định là đầu mối giao thông lớn nhất nhì miền Bắc như giờ, họ không thể thiếu con sông Vị. Vì thế, đất Vị Hoàng vừa chỉ làng quê nhà thơ, vừa chỉ cả thành Nam, tỉnh Nam Định. Qua sự thay đổi làng quê của mình, tác giả cảm nhận được số phận chung của cả đất nước khi đó. “Đất vị Hoàng” là bài thơ được viết theo bút pháp trào phúng, qua đó thấy được nỗi đau xót phẫn uất, bất bình trước hoàn cảnh thay đổi của xã hội. Bài thơ đã phơi bày những thay đổi theo chiều hướng tiêu cực, suy thoái đạo đức xã hội một cách đầy đủ, đồng thời nhà thơ bộc lộ sự đau xót trước sự thay đổi đó.

Hai câu đề đã được Tú Xương gợi hoàn cảnh đã dẫn đến vùng quê Đất Vị Hoàng có nhiều thay đổi 

“Có đất nào như đất ấy không?

Phố phường tiếp giáp với bờ sông”

Làng quê xưa của Tú Xương sinh sống nay đã trở thành một chốn đô thị phồn vinh. Ngay câu thơ đầu tiên tác giả đã sử dụng câu hỏi tu từ“ Có đất nào như đất ấy không”, câu hỏi không đợi để trả lời, khiến độc giả phải tự đặt câu hỏi : Phải chăng sự thay đổi quá nhanh đã khiến cho mảnh đất chôn nhau cắt rốn trở nên xa lạ, tạo ra cho con người một sự xa cách đến bất ngờ. Bằng những câu thơ tả thực Tế Xương đã vẽ ra những gì mà tác giả chứng kiến có một thứ gì đó chua xót đọng lại trong tâm hồn của người và đáng thương thay vùng đất nơi mà quê hương của tác giả cũng là cách để nói lên thực trạng của đất nước Nam mình. Dùng câu hỏi tu từ để nổi bật sự ngỡ ngàng trước đổi thay, sự lạ lẫm ở mảnh đất vốn thân quen, đó chính là sự xuất hiện của những “phố phường tiếp giáp với bờ sông” Vị Hoàng, đây cũng là dấu hiệu của một cuộc sống mới, của một lối sống mới mà người Pháp đang xây dựng ở trong xã hội ta.

Nhà thơ khắc họa bức biếm họa nhị bình đăng đối, với bao vết ố, nét nhơ ghê tởm, đặc tả sự đồi bại về luân thường đạo lí được thể hiện qua hai đâu thực

“Nhà kia lỗi phép con khinh bố,

Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng."

Hiện thực xấu xa, đau lòng được Tế Xương phơi bày.. Cách dùng “nhà kia, mụ nọ ” vừa ám chỉ vừa vạch mặt chỉ tên đầy khinh bỉ trước những cảnh đời xấu xa vô đạo. Có cảnh nhà "lỗi phép": con cái bất hiếu "Con khinh bố" và cảnh mâu thuẫn giữa vợ chồng: ”vợ chửi chồng”. Có lẽ vì đồng tiền mà đồi bại đến cùng cực khiến hai mối quan hệ gia đình: tình phụ tử, nghĩa phu - thê đã trở nên nhem nhuốc vô cùng. Qua hai câu thơ của nhà thơ Trần Tế Xương ta có thể thấy xã hội đó đã để đồng tiền vượt lên trên tất cả các chuẩn mực đạo đức.       

Qua hai câu luận tác giả đã khắc họa sự thay đổi trong chính con người, nó hiện ra với đủ mọi tính cách xấu xa, bần tiện, hôi hám:

“ Keo cú người đâu như cứt sắt

Tham lam chuyện thở rặt hơi đồng”

Với một lối viết mạnh rạn, và ngôn ngữ bình dị, ông đã tạo cho người đọc cái nhìn mới mẻ và có nhiều ý nghĩa về cuộc sống khi tại chính vùng đất nơi đây lại xuất hiện nhiều những sự việc lạ lùng và mang nhiều ý nghĩa đến như thế. Ở cái đất Vị Hoàng thuở ấy nhan nhải những loại người “keo cú” và “tham lam”, tồn tại những con người tham lam và có sự ích kỉ lớn. Hàm ý đầy khinh bỉ “cứt sắt” ví người keo kiệt, bủn xỉn hết mức. Hai câu thơ sử dụng phép đối “như cứt sắt” với “rặt hơi đồng” đã nhấn mạnh những thói hư, tật xấu của con người, qua đó thể hiện nỗi đau xót của Tú Xương, làm cho lời thơ thêm cân xứng, hài hòa. Tác giả sử dụng phép so sánh: “người đâu như cứt sắt” sao mà đáng sợ vậy ! Lại có loại người “tham lam” đến cùng cực như vậy, nhịp sống cuộc đời họ chỉ là chuyện tiêu cực xung quanh những thử bủn xỉn.  Đảo ngữ “keo cú”, “tham lam” lên đầu để nhấn mạnh, tạo nên nhịp điệu dữ dội, khinh bỉ, một tiếng chửi đời cay độc, lên án loại người tham lam, keo cú. Tình cảm quanh giữa con người với con người không còn là chút tình nghĩa và sự yêu thương nữa mà khô cứng như thép, vụ lợi lẫn nhau. Qua hai câu luận, Tế Xương đã vạch trần nét tiêu cực trong tính cách con người trong thời đô thị hóa ở làng Vị Hoàng thời đó .Trong xã hội đó con người chỉ biết đến lợi ích cho bản thân mình, con người sống với nhau bằng lí tính thì xã hội đang trên đà suy vong, bởi xét cho cùng cuộc sống như vậy có hơn cuộc sống của những con vật và có khả năng tuyệt chủng là bao? 

Mỗi độc giả có lẽ đọc đến hai câu thực cũng thấu hiểu về tình cảnh và nỗi lòng của nhà thơ:

“Bắc Nam hỏi khắp người bao tỉnh,

 Có đất nào như đất ấy không?”

Tác giả đã sử dụng nghệ thuật mở đầu - kết thúc dưới hình thức câu hỏi tu từ nghẹn ngào cất lên như một lời đay nghiến, vừa xót xa đau đớn. Tác giả Tú Xương đã thể hiện thái độ bất mãn, phẫn nộ trước cảnh tượng, lề lối đạo đức suy đồi, phép tắc gia đình đảo lộn, xã hội ngập tràn những xấu xa, bần tiện. Câu hỏi “Có đất nào như đất ấy không ?” tác giả Tế Xương không dành riêng cho người dân làng quê Vị Hoàng, mà đó còn là câu chuyện xã hội của cả đất nước lúc bấy giờ. Chính hai câu thơ kết bài này đã mở rộng thêm tầm tư tưởng tình cảm của bài thơ.

Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngồn bát cú Đường luật. Với giọng điệu chủ đạo của bài thơ trào phúng này xuất phát từ cái gốc trữ tình, mang đến sự thấu cảm đau đớn, xót xa của tác giả đến với độc giả. Câu mở đầu và kết thúc đều  là câu hỏi tu từ “Có đất nào như đất ấy không?”, Tú Xương hỏi mà nghe chua xót đến chạnh lòng biết bao trước những cảnh xã hội thay đổi tiêu cực, còn đâu hình ảnh đẹp một thời, để người ta nhớ và tự hào như xưa. Bài thơ đã phê phán những thói hư tật xấu thối nát như tham lam, bất hiếu, keo kiệt.

Tú Xương kịch liệt lên án, tố cáo những thói hư tật xấu của con người lúc bấy giờ, phê phán những con người vì đồng tiền mà làm mất đi giá trị bản thân, giá trị đạo đức con người và xã hội. Thể hiện nỗi đau đớn trước hiện thực đất nước, đồng thời còn thể hiện lòng yêu nước thầm kín mà mãnh liệt của Tú Xương

Như vậy bài thơ “Đất Vị Hoàng” là một bài thơ trào phúng đặc sắc, tiêu biểu của Trần Tế Xương. Bài thơ vô cùng xuất sắc ngắn gọn với kết cấu đường luật chặt chẽ cùng bút pháp hiện thực đã giúp ta cảm thấy được những thay đổi tiêu cực của vùng đất Vị Hoàng, đồng thời giúp độc giả thấu hiểu được những điều đã xảy ra ở xã hội thời đó thật tiêu cực, càng cho ta thêm cảm phục tấm lòng lo lắng cho quê hương, đất nước của chính nhà thơ.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng bạn bè học sinh cả nước, đến LAZI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Câu hỏi Ngữ văn mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo