Bằng cách nhấp vào Đăng nhập, bạn đồng ý Chính sách bảo mật và Điều khoản sử dụng của chúng tôi. Nếu đây không phải máy tính của bạn, để đảm bảo an toàn, hãy sử dụng Cửa sổ riêng tư (Tab ẩn danh) để đăng nhập (New Private Window / New Incognito Window).
03/11/2023
Nam Cao là cây bút hiện thực xuất sắc của văn học Việt Nam thời kì 1930 – 1945. Nghệ thuật xây dựng nhân vật chính là điểm đặc sắc trong các sáng tác của Nam Cao, giúp ông khắc họa sinh động hiện thực cuộc sống của những con người cùng khổ. Điều này được thể hiện rõ trong tác phẩm “Giăng sáng”.
Về cách lựa chọn đối tượng để xây dựng nhân vật, “Giăng sáng” viết về tầng lớp trí thức tiểu tư sản. Trước khi trở thành đại diện tiêu biểu cho văn học hiện thực phê phán, Nam Cao từng một thời thử sức mình với văn học lãng mạn. Nhưng với tấm lòng nhân đạo sâu sắc, ông nhận ra trước mắt mình là biết bao con người đang sống trong cảnh lầm than, đói khổ. Đoạn tuyệt với thứ văn chương mơ mộng mà giả dối, Nam Cao hướng ngòi bút của mình đến tầng lớp nông dân bần cùng và tầng lớp trí thức nghèo.
Trước hết, nhà văn tập trung miêu tả những bi kịch tinh thần, quá trình giằng xé trong nội tâm nhân vật Điền để làm nổi bật nỗi thống khổ của những kiếp người “muốn cất cánh bay cao nhưng bị áo cơm ghì sát đất”. Nam Cao quan tâm đến những nét tâm lí nhỏ nhặt cùng các sự vật hoặc sự việc có tính chất đời thường. Từ những điều nhỏ bé ấy, ông đưa ra những triết lí mang tính phổ quát về thân phận con người, hoàn cảnh xã hội. Mở đầu tác phẩm là hình ảnh Điền và bốn cái ghế mây – thứ duy nhất có giá trị trong nhà Điền. Giọng văn lạnh lùng đến dửng dưng của Nam Cao khiến người đọc tò mò: “Ðiền có bốn cái ghế mây. Tất cả đồ đạc trong nhà, chỉ có bốn cái ghế mây này là có giá. Không phải Ðiền mua. Tính Ðiền rất ghét mua”. Chỉ xoay quanh bốn cái ghế ấy, Nam Cao đã hé lộ biết bao nỗi niềm của nhân vật. Là một người có học, Ðiền từng làm một ông giáo trường tư trong ngót ba năm. Với một người ôm mộng văn chương, muốn sáng tạo những áng văn bất hủ để đời như Điền thì công việc dạy học cũng có phần đáng chán. Vì hai chục bạc lương mà Điền cố gắng. Ngày trường dẹp, ông hiệu trưởng còn nợ của Điền nửa tháng lương. Ông ta đành ngượng nghịu bảo Điền cầm bộ ghế mây về. Lúc này tâm trạng Điền diễn ra những trạng thái đặc biệt. Điền dồn nén cảm xúc để cái mặt không xị xuống. Bao nhiêu phân vân, tính toán dở khóc dở cười xuất hiện trong đầu óc anh. “Chao ôi! Cũng mang tiếng là ghế mây!... Cái thì xộc xệch, cái thì bốn chân rúm lại, và chẳng cái nào là nước sơn không róc cả ra như là da thằng hủi. Trông đủ thảm.”. Câu văn cho thấy tâm trạng xót xa, khổ tâm hết sức của Điền. Điền ngại đèo bòng mấy chiếc ghế mây, sợ tốn thêm tiền tàu xe mà cũng không dám từ chối ông hiệu trưởng bởi“Họ bị tủi vì người ngoài đã lắm. Chẳng nên để người nọ bị tủi vì người kia”. Điền suy đi, tính lại rồi ưng thuận. Không chỉ Điền mà nhân vật ông hiệu trưởng cũng có những chi tiết phân vân tương tự. Từ đó, nhà văn cho thấy bi kịch của tầng lớp trí thức tiểu tư sản trong xã hội đương thời khi bị cơm áo gạo tiền bóp nghẹt đến mức phải sống tằn tiện, nghèo khổ, thảm hại. “Ðiền tự an ủi: Có tiền rồi sẽ viết. Nhưng Ðiền biết: chẳng bao giờ Ðiền viết nữa, bởi chắc chắn là suốt đời Ðiền cũng không có tiền...”
Diễn biến tâm lý của nhân vật trong “Giăng sáng” thực chất là quá trình đấu tranh, sự chuyển hóa lẫn nhau của những đối cực trong nội tâm con người. Xung đột chủ yếu trong những sáng tác của Nam Cao là xung đột của thế giới nội tâm nhân vật. Kể cả trong “Chí Phèo”, căng thẳng nội tâm cũng diễn ra trước và được nhà văn miêu tả kĩ hơn là phút hành động cuối cùng. Nhân vật của Nam Cao luôn ở trong tâm thế chông chênh giữa một bên là ước mơ cao cả với một bên là hiện thực nghèo túng. Và hơn hết, họ chẳng thể nào thanh thản để chọn lấy một con đường. Điền yêu trăng, coi trăng là biểu tượng cho vẻ đẹp sang trọng của nghệ thuật. Những tối có trăng, Điền khuân mấy cái ghế ra sân ngồi cùng vợ con. Những phút thảnh thơi hiếm hoi ấy xoa dịu lòng Điền. Nhờ có tâm hồn đẫm văn thơ mà Điền thấy người vợ mới cằn cỗi làm sao! Lúc nào thị cũng tính toán, luôn luôn tính toán. Điền cho rằng điều ấy nhỏ nhen và tầm thường. Thế nhưng, chính Điền cũng vô thức trở thành kẻ tính toán lúc nào không hay. Khi chứng kiến cảnh nheo nhóc của gia đình, bỗng nhiên Điền nảy sinh nỗi đau quằn quại. Đấu tranh nội tâm gay gắt đang tra tấn Điền. “Còn sống trong cái gia đình này mãi, giữa những lo lắng nhỏ nhen này mãi, lòng Ðiền sẽ cạn. Cạn luôn cả nguồn thơ quý báu, mà Ðiền vẫn ao ước có ngày lại khơi...”. Chỉ có những người đàn bà đẹp mới biết yêu văn chương của Điền và ý nghĩ này làm chính anh ta thấy xấu hổ. Nam Cao đã đi sâu vào từng ngóc ngách của tâm trạng con người để vén bức màn đang che giấu những khát khao thầm kín. Giữa lúc ý định muốn bỏ đi trở nên rõ rệt, cơn ốm cùng tiếng rên đau đớn của đứa con, sự tức giận đến khổ sở của người vợ làm Điền sực tỉnh. Tình thương con, tinh thần trách nhiệm đã kéo Điền về với thực tại. Khi phản ánh mâu thuẫn giữa hiện thực và sự mơ mộng, nhà văn thẳng thắn chỉ ra khuyết điểm của tầng lớp trí thức tiểu tư sản. Họ rời xa tầng lớp lao động cần lao để sống với ảo tưởng. Bi kịch của Điền đến từ sự ngộ nhận, chọn lựa sai lý tưởng sống. Miêu tả những mâu thuẫn âm thầm mà căng thẳng trong nội tâm nhân vật, Nam Cao đã đưa ra tuyên ngôn đúng đắn về nghệ thuật. Nhà văn phải “đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của đời”.
Điểm xuất sắc trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của Nam Cao còn nằm ở việc nhà văn đưa ra nguyên nhân cho những nét tâm trạng ấy. Sự ảnh hưởng của các quan hệ xã hội, hoàn cảnh sống luôn chi phối quyết định con người. Nam Cao không chỉ phơi bày mà còn lí giải. Được học hành, có tài văn chương, mong muốn dùng văn chương để cải tạo cuộc đời nhưng thời thế, hoàn cảnh đã bạc đãi Điền. Ai trên đời cũng muốn tài năng của mình trở nên hữu ích. Hoàn cảnh nghèo khó khiến Điền cảm thấy mình ích kỉ khi những đứa em bơ vơ, nheo nhóc. Khi tạm gác văn chương để kiếm tiền, mẹ lại bắt Điền lấy vợ. Gia đình to rồi đến gia đình nhỏ, anh kiệt sức, trở thành kẻ ăn bám thừa mứa và lại khao khát thoát li thực tại. Cái vòng quanh quẩn, tăm tối này cứ lặp đi lặp lại khiến nhân vật sống trong vòng xoáy bất hạnh.
Bên cạnh nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, ngôn ngữ trần thuật cũng là yếu tố góp phần làm nên thành công cho nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nam Cao. Ngôi kể thứ ba luôn tạo dựng được tính chân thật, khách quan cho câu chuyện. Nhưng cũng có khi, ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật được lồng ghép vào nhau, thể hiện trực tiếp cảm xúc của nhân vật và cho thấy thái độ của nhà văn: “Chao ôi! Trăng đẹp lắm! Trăng dịu dàng và trong trẻo và bình tĩnh. Nhưng trong trong những căn lều nát mà trăng làm cho cái bề ngoài trông cũng đẹp, biết bao người quằn quại, nức nở, nhăn nhó với những đau thương của kiếp mình! Biết bao tiếng nghiến răng và chửi rủa! Biết bao cực khổ và lầm than?... Không, không, Ðiền không thể nào mơ mộng được”. Nam Cao thường sử dụng nhiều câu hỏi tựa như lời tự vấn: “Ðiền muốn tránh sự thực, nhưng trốn tránh làm sao được?”, “Tại sao Ðiền lại vụt nghĩ đến những hình ảnh lả lơi ấy?”. Điểm nhìn trần thuật cũng vì thế mà trở nên linh hoạt, giúp cho việc khắc họa tâm lí nhân vật thêm sâu sắc.
Với “Giăng sáng”, Nam Cao không khắc họa nhân vật bằng ngoại hình. Những hành động bên ngoài của nhân vật cũng ít khi được nhà văn đề cập đến. Nhân vật Điền hiện lên chủ yếu qua quá trình diễn biến tâm lí phức tạp. Sự thay đổi trong nhận thức dẫn đến sự thay đổi trong cách nhìn, cách cảm nhận thế giới xung quanh. Trong“Chí Phèo”, nhờ có bát cháo hành của Thị Nở mà Chí cảm thấy khung cảnh buổi sáng hôm sau đẹp lạ thường. Ở đây, cảm nhận của Điền về ánh trăng trước và sau cũng có rất nhiều thay đổi.
Như vậy, với cách chọn lựa đối tượng nhân vật phù hợp, nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo, ngôn ngữ trần thuật cùng điểm nhìn linh hoạt, Nam Cao đã xây dựng thành công nhân vật Điền – hình ảnh đại diện cho tầng lớp trí thức tiểu tư sản trước Cách mạng. Tác phẩm là truyện ngắn mang đậm tinh thần hiện thực phê phán, tiêu biểu cho phong cách Nam Cao và xứng đáng trở thành tuyên ngôn nghệ thuật cao cả của nhà văn.
03/11/2023
A-Dua
Nghệ thuật tự sự là một thể loại văn học đặc biệt, cho phép tác giả chia sẻ những trải nghiệm cá nhân và suy ngẫm về cuộc sống. Trong đoạn trích "Giăng sáng" của tác giả, chúng ta có thể thấy rõ những đặc điểm đáng chú ý trong nghệ thuật tự sự. Tác giả đã tạo ra một không gian tưởng tượng sâu sắc, sử dụng ngôn ngữ tinh tế và tạo cảm xúc mạnh mẽ để kết nối với độc giả.
Đầu tiên, tác giả đã tạo ra một không gian tưởng tượng đầy màu sắc và chi tiết trong câu chuyện. Bằng cách miêu tả chi tiết về cảnh quan, âm thanh và mùi hương, tác giả đã mang lại cho độc giả một trải nghiệm sống động và chân thực. Ví dụ, trong đoạn trích, tác giả miêu tả cảnh hoàng hôn với "ánh nắng vàng óng ả, len lỏi qua những kẽ lá cây" và "tiếng chim hót líu lo từ xa". Những hình ảnh này không chỉ tạo ra một bối cảnh hấp dẫn, mà còn giúp độc giả cảm nhận được sự thăng hoa và sự sống động của tác phẩm.
Thứ hai, ngôn ngữ tinh tế của tác giả đã tạo ra một sức hút đặc biệt. Từ việc sử dụng các từ ngữ mô tả tinh tế cho đến việc chọn lựa câu từ đầy ẩn ý, tác giả đã tạo ra một ngôn ngữ đẹp mắt và sâu sắc. Ví dụ, trong đoạn trích, tác giả sử dụng từ "giăng sáng" để miêu tả ánh sáng mặt trời chiếu qua cửa sổ, tạo nên một hình ảnh tươi sáng và mê hoặc. Bên cạnh đó, tác giả cũng sử dụng các từ ngữ như "lấp lánh", "phủ kín" và "mê hoặc" để tạo ra một cảm giác thị giác và cảm xúc sâu sắc cho độc giả.
Cuối cùng, tác giả đã tạo ra một sự kết nối mạnh mẽ với độc giả thông qua cảm xúc. Bằng cách chia sẻ những suy nghĩ và cảm nhận cá nhân, tác giả đã tạo ra một sự thân thiết và chân thành. Đoạn trích cho thấy tác giả đang trải qua một trạng thái tâm trạng phấn khích và hạnh phúc khi nhìn thấy ánh sáng mặt trời. Điều này giúp độc giả cảm nhận được sự chân thành và tương tác với tác giả, tạo nên một trải nghiệm đọc đầy ý nghĩa.
Tóm lại, đoạn trích "Giăng sáng" của tác giả đã thể hiện những đặc điểm đáng chú ý trong nghệ thuật tự sự.
03/11/2023
A-Dua Đoạn trích "Giăng sáng" là một phần trong tác phẩm tự sự "Dế Mèn Phiêu Lưu Ký" của nhà văn Tô Hoài. Trong đoạn này, tác giả miêu tả cuộc sống của mình khi còn nhỏ ở làng quê, đặc biệt là những trò chơi và cuộc phiêu lưu của nhóm bạn thân. Bằng cách sử dụng các kỹ thuật nghệ thuật tự sự, Tô Hoài đã tạo nên những đặc sắc về nghệ thuật trong đoạn trích này.
Một trong những đặc điểm nghệ thuật tự sự trong "Giăng sáng" là sự chi tiết và chân thực. Tác giả miêu tả rất chi tiết về những trò chơi và hoạt động của nhóm bạn nhỏ, từ việc tìm kiếm con dế mèn, đến việc xây dựng cái giăng để bắt chim. Những chi tiết này không chỉ tạo ra hình ảnh sống động trong tâm trí người đọc, mà còn tái hiện lại những kỷ niệm và cảm xúc của tác giả khi còn trẻ.
Ngoài ra, Tô Hoài cũng sử dụng kỹ thuật miêu tả và hình ảnh để tạo nên sự hấp dẫn trong đoạn trích. Những câu văn mô tả về cảnh sáng sủa, những âm thanh của thiên nhiên và tiếng cười của các bạn nhỏ khi chơi đều tạo ra một không gian sống động và thú vị. Tác giả cũng sử dụng các từ ngữ mô tả màu sắc, âm thanh và hình ảnh để tạo nên sự sinh động và hấp dẫn cho đọc giả.
Ngoài ra, trong "Giăng sáng", Tô Hoài còn sử dụng kỹ thuật kể chuyện và lời văn đan xen nhau để tạo nên sự lưu loát và cuốn hút. Tác giả chuyển đổi giữa việc miêu tả những hoạt động của nhóm bạn và việc kể lại câu chuyện về con dế mèn một cách tự nhiên và thông suốt. Điều này giúp người đọc dễ dàng theo dõi và hiểu rõ hơn về những trải nghiệm và cảm xúc của tác giả.
Tổng thể, qua đoạn trích "Giăng sáng", Tô Hoài đã thể hiện được những đặc sắc trong nghệ thuật tự sự. Sự chi tiết và chân thực, kỹ thuật miêu tả và hình ảnh, cùng với kỹ thuật kể chuyện và lời văn đan xen đã tạo nên một tác phẩm sống động và cuốn hút. Tác giả đã thành công trong việc tái hiện lại những kỷ niệm và cảm xúc của mình, và mang đến cho người đọc một trải nghiệm đầy cảm xúc và ý nghĩa.
03/11/2023
Nghệ thuật tự sự là một thể loại văn học đặc biệt, cho phép tác giả chia sẻ những trải nghiệm cá nhân, suy nghĩ và cảm xúc của mình. Trong đoạn trích "Giăng sáng" của tác giả, chúng ta có thể thấy những đặc sắc trong nghệ thuật tự sự mà tác giả đã sử dụng để tạo nên một tác phẩm độc đáo và sâu sắc.
Trước tiên, tác giả đã sử dụng ngôn ngữ tươi sáng và hình ảnh tươi đẹp để mô tả những kỷ niệm của mình. Bằng cách sử dụng các từ ngữ như "giăng sáng", tác giả đã tạo ra một hình ảnh tươi mới, như một ánh sáng chiếu rọi vào những ký ức. Điều này giúp tạo ra một không gian đặc biệt trong tâm trí độc giả, nơi họ có thể cảm nhận và hòa mình vào câu chuyện.
Thứ hai, tác giả đã sử dụng cấu trúc câu chuyện tinh tế để tạo ra một sự liên kết mạch lạc giữa các sự kiện và ý nghĩa của chúng. Từ việc miêu tả những kỷ niệm tuổi thơ đến những suy nghĩ sâu xa về cuộc sống, tác giả đã xây dựng một câu chuyện có tính logic và sự liên kết mạch lạc. Điều này giúp độc giả hiểu rõ hơn về quá trình tác giả trải qua và cảm nhận được sự chân thực và chân thành trong câu chuyện.
Thứ ba, tác giả đã sử dụng cảm xúc và suy nghĩ sâu sắc để tạo nên sự chân thành và tình cảm trong câu chuyện. Từ những suy nghĩ về gia đình, tình yêu và cuộc sống, tác giả đã chia sẻ những cảm xúc chân thành và sâu sắc của mình. Điều này tạo ra một sự kết nối tình cảm giữa tác giả và độc giả, khiến cho câu chuyện trở nên thật sự đáng quan tâm và đáng nhớ.
Cuối cùng, tác giả đã sử dụng phong cách viết tinh tế và sáng tạo để tạo nên một tác phẩm tự sự độc đáo. Bằng cách sử dụng các phép tu từ, hình ảnh và ngôn ngữ đặc biệt, tác giả đã tạo ra một phong cách viết riêng, mang đậm dấu ấn cá nhân. Điều này làm cho câu chuyện trở nên độc đáo và thu hút độc giả.
tick cho mình nha
Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi
Vui | Buồn | Bình thường |