Bằng cách nhấp vào Đăng nhập, bạn đồng ý Chính sách bảo mật và Điều khoản sử dụng của chúng tôi. Nếu đây không phải máy tính của bạn, để đảm bảo an toàn, hãy sử dụng Cửa sổ riêng tư (Tab ẩn danh) để đăng nhập (New Private Window / New Incognito Window).
Lời thoại của nhân vật trong tác phẩm tự sự là một công cụ hữu hiệu giúp nhà văn khắc họa tính cách nhân vật, tạo nên "lời ăn tiếng nói riêng" của mỗi nhân vật, truyền tải ý đồ nghệ thuật mà nhà văn gửi gắm vào trong cốt truyện. Có thể nói rằng, ngôn ngữ đối thoại của các nhân vật trong "Vợ nhặt" là một trường hợp độc đáo, tạo nên giọng điệu riêng của nhà văn Kim Lân.
Ngôn ngữ nhân vật trong các tác phẩm thuộc loại hình tự sự và kịch, là một trong các phương tiện quan trọng được nhà văn sử dụng nhằm thể hiện cuộc sống và cá tính nhân vật.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Thái Hòa cũng cho rằng, trong các tác phẩm tự sự, "lời thoại là hình thức kể bằng lời nhân vật. Nó còn được gọi là lời trực tiếp của nhân vật trong văn học, là "hình thức kể chuyện cá thể hoá triệt để tính cách và tình huống đối thoại" (Nguyễn Thái Hoà (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội).
Minh họa bằng hình vẽ cho truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân.
Lời thoại của nhân vật trong tác phẩm văn học là hình thức giao tiếp thường xuyên, phổ biến nhất của ngôn ngữ, đồng thời cũng là hình thức căn bản của mọi hoạt động ngôn ngữ khác. Hội thoại thường là cuộc trò chuyện, đối đáp giữa hai nhân vật, dạng phổ biến nhất của hội thoại là song thoại. Đơn vị cơ sở của hội thoại là cuộc thoại. Cuộc thoại bao gồm toàn bộ sự tương tác qua lại giữa người nói và người nghe kết hợp với sự luân phiên lượt lời và thay đổi vai trò trong suốt quá trình giao tiếp. Những phát ngôn không có lời hồi đáp thì không được xem là đối thoại.
Lời thoại của nhân vật trong tác phẩm tự sự là một công cụ hữu hiệu giúp nhà văn khắc họa tính cách nhân vật, tạo nên "lời ăn tiếng nói riêng" của mỗi nhân vật, truyền tải ý đồ nghệ thuật mà nhà văn gửi gắm vào trong cốt truyện. Vì thế, có thể nói rằng, ngôn ngữ đối thoại của các nhân vật trong "Vợ nhặt" là một trường hợp độc đáo, tạo nên giọng điệu riêng của Kim Lân.
Kim Lân, đúng như nhà văn Nguyên Hồng nhận xét, là nhà văn một lòng đi về với "đất", với "người", với "thuần hậu nguyên thủy" của cuộc sống nông thôn. Nhận xét này dường như rất đúng với "Vợ nhặt". Tác phẩm được Kim Lân viết sau khi hòa bình lập lại, dựa vào trí nhớ của mình từ tiểu thuyết "Xóm ngụ cư" đã bị mất bản thảo trước đó, in trong tập "Con chó xấu xí" (1962).
"Vợ nhặt" đặc sắc với ngôn ngữ nhân vật"Vợ nhặt" không dài, chỉ vẻn vẹn gần 11 trang sách, nhưng xen giữa lời dẫn truyện là 78 lượt đối thoại của các nhân vật với nhau.
Trong tác phẩm, Kim Lân chỉ miêu tả ba không gian nghệ thuật: ở chợ huyện - nơi gặp gỡ của Tràng và người "vợ nhặt", trên đường Tràng đi về qua xóm ngụ cư và cảnh nhà của anh Tràng. Tác giả thật khéo léo khi dồn nén không gian ấy vào trong hành trình đi tìm hạnh phúc của đôi vợ chồng Tràng - thị. Trên cái nền khung cảnh ấy, Kim Lân đã vô cùng tinh tế khi xây dựng tình huống để nhân vật đối thoại với nhau, từ đó, người đọc tự phát hiện ra nét đẹp trong tính cách của các nhân vật trong cái nạn đói khủng khiếp năm đó.
Kim Lân từng viết: "Những người đói, họ không nghĩ đến cái chết mà nghĩ đến sự sống", vì thế ông đã dành cho anh Tràng và thị hơn nửa số lượt lời đối thoại trong tác phẩm (40/78 lượt lời đối thoại) chỉ để hai nhân vật "phải duyên với nhau", tìm hiểu nhau và quyết định đến với nhau. Anh Tràng gặp thị hai lần mà nên duyên vợ chồng.
Lần thứ nhất, anh Tràng hò vu vơ mấy câu "Muốn ăn cơm trắng mấy giò này/Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì!", thị đã "lon ton" chạy ra đẩy xe cho anh Tràng. Lần thứ hai, Tràng gặp lại thị, thị đã thay đổi nhiều quá, thị "gầy sọp hẳn đi" nhưng vẫn với cái vẻ "cong cớn" đó. Ngay từ câu chào đầu tiên, thị đã tỏ vẻ trách móc như một sự gợi ý về cái ăn "Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt" và "ăn gì thì ăn chả ăn giầu". Với thị, kiếm cái gì bỏ vào cái bụng đang kêu réo kia lúc này là quan trọng hơn cái xã giao "miếng trầu là đầu câu chuyện". Khi anh Tràng hào phóng "muốn ăn gì thì ăn", "hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên". Thái độ xỉa xói, chao chát của thị biến mất nhường chỗ cho sự đon đả "Ăn thật nhá! Ừ thì ăn sợ gì".
Không phải ngẫu nhiên mà thị lại có quyết định đi theo anh Tràng về làm "vợ nhặt" nhanh chóng như vậy. Trong lần gặp lại lần thứ hai, thị là người cố tình tìm hiểu, khai thác thông tin - những thông tin vô cùng quan trọng và cần thiết để thị có quyết định về làm vợ anh Tràng hay không.
Thứ nhất, anh Tràng là người đàn ông hào phóng, tốt bụng và có thể nói là giàu có "rích bố cu", là một chỗ dựa chắc chắn cho thị trước cái đói đến mức "cái ngực gầy lép nhô hẳn lên". Chưa quen thân lắm nhưng anh đã mời thị ăn bánh đúc, mà thị ăn một chặp bốn bát bánh đúc, anh chẳng than phiền gì.
Thứ hai, một thông tin quan trọng là anh Tràng chưa có vợ. Thị vô cùng khéo léo khi chủ động hỏi một cách đưa đẩy, nửa đùa, nửa thật "về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố". Nào ngờ, anh Tràng lại khai thật "Làm đếch gì có vợ". Rồi anh Tràng lại đùa "có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về". Ai ngờ thị theo anh Tràng về thật.
Có thể nói rằng trong đoạn đối thoại này, thị là người chủ động khai thác thông tin để đưa ra quyết định đi theo anh Tràng một cách chủ động; anh Tràng thì đùa cho vui, hoàn toàn không nghĩ đến những toan tính trong suy nghĩ của thị nên khi thị "đi về" thật, Tràng lo sợ "thóc gạo này đến cái thân mình biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng", nhưng rồi anh cũng "chặc, kệ!". Khi thị quyết định làm vợ nhặt, thị đã nuôi một hi vọng sẽ tìm thấy một chỗ dựa để thoát khỏi cái đói khủng khiếp kia, có được một mái ấm gia đình. Nhưng khi nhìn thấy nhà anh Tràng rắp cổng bằng một cành dong, thị đã "nén một tiếng thở dài". Rõ ràng hiện thực ấy khác xa so với suy nghĩ và hi vọng của thị trước đó.
Trước mỗi cặp thoại ở buổi gặp gỡ giữa Tràng và thị là những lời dẫn thoại của tác giả miêu tả thái độ của thị: lúc cong cớn, xỉa xói, khi đon đả, ngọt ngào. Lời thoại là những phát ngôn có nội dung thông báo trọn vẹn, đầy rẫy tính từ "nói thật hay nói khoác", "người thế mà điêu", "leo lẻo cái mồm", cách xưng hô đưa đẩy thân mật "nhà tôi", "đằng ấy", "tớ". Hình thức lời thoại đa dạng: khi là câu hỏi, khi mặc cả, lúc là lời mắng, lúc lại là lời cảm thán.
Nhưng lời đối thoại trong buổi rước dâu lại cụt lủn, buồn tẻ, thiếu vắng từ xưng hô. Hình thức lời thoại cũng đơn điệu: một câu hỏi và một câu trả lời. Người dọc cũng không còn bắt gặp lời dẫn thoại miêu tả thái độ cong cớn, xỉa xói, đon đả của nhân vật như ở buổi đầu gặp gỡ nữa. Những lời đối thoại cụt lủn, tẻ nhạt này chính là tâm trạng ngượng ngùng, e thẹn, âu lo của cả hai nhân vật. Hai kẻ xa lạ gặp nhau, một kẻ đói quay quắt, "quần áo rách như tổ đỉa", một kẻ có tiền "rích bố cu" chiêu đãi bốn bát bánh đúc, đánh một bữa cơm no nê, mua hai hào dầu, một cái thún con con thế mà nên duyên chồng vợ thì làm sao mà không ngượng ngùng được. Nào họ có cơ hội để tìm hiểu nhau đâu. Khi đùa vui thì mạnh bạo gọi "nhà tôi ơi", "đằng ấy", nay theo nhau về thì vấn đề trở nên quan trọng, biết xưng hô với nhau ra sao?
"Kim Lân rất tài khi viết những lời đối thoại giữa hai vợ chồng Tràng. Nó thật lửng lơ với toàn là câu nói trống không, nó nhấm nhẳng, dấm dẳn đến hay. Đó là cái lửng lơ, nhấm nhẳng của hai kẻ "chân đất" cùng khốn, bất ngờ trở thành vợ chồng nhanh quá, nên tới tận lúc đi bên nhau vẫn còn chưa hết lạ, chưa hết ngượng với nhau. Nhưng đó cũng là cái dấm dẳn của hai người biết rằng họ đã có nhau" (Đỗ Kim Hồi, Giảng văn văn học Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục, 2000).
Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi
Vui | Buồn | Bình thường |