Bằng cách nhấp vào Đăng nhập, bạn đồng ý Chính sách bảo mật và Điều khoản sử dụng của chúng tôi. Nếu đây không phải máy tính của bạn, để đảm bảo an toàn, hãy sử dụng Cửa sổ riêng tư (Tab ẩn danh) để đăng nhập (New Private Window / New Incognito Window).
câu 1
- Năm 1005, Lê Hoàn mất, Lê Long Đĩnh lên ngôi vua, là một ông vua tàn bạo nên trong triều ai cũng căm phẫn.
- Cuối năm 1009, Lê Long Đĩnh qua đời, các tăng sư và đại thần đứng đầu là sư Vạn Hạnh, Đào Cam Mộc đã tôn Lý Công Uẩn lên ngôi. Nhà Lý thành lập.
- Thế hệ trẻ ngày nay vẫn thường đặt câu hỏi Lý Thái Tổ là ai? Nhà vua tên thật là Lý Công Uẩn, sinh ngày 08/03/974 trị vì đất nước từ năm 1009 đến 1028. Quê quán là người Châu Cổ Pháp hiện là Bắc Ninh ngày nay.
- Mối lương duyên của ông bắt đầu khi vào năm 3 tuổi, Lý Công Uẩn được đến nhà Lý Khánh Văn theo học và được nhận làm con nuôi. Khi đi theo nhà sư Vạn Hạnh học hỏi thì được ông rất yêu mến.
tiểu sử
Lý Công Uẩn (974 - 1028) người châu Cổ Pháp, lộ Bắc Giang (nay là Bắc Ninh), từ nhỏ ông là một cậu bé dĩnh ngộ hơn người, lại được sự nuôi dạy của hai nhà trí thức lớn đương thời là sư Lý Khánh Văn và Thiền sư Đạo Hạnh. Khi mới 20 tuổi Lý Công Uẩn được đưa vào triều làm một chức quan võ. Vốn là người thông minh, có sức khỏe và chí lớn, Công Uẩn từ đó ngày càng được tin cậy trong triều, về sau làm tới điện tiền chỉ uy sứ và trở thành trụ cột của nhà tiền lê.
Vì vậy ngay sau khi Lê Long Đĩnh mất, mọi triều thần đều nhận thấy Lý Công Uẩn là người khoan hòa, nhân thức và được lòng muôn dân nên cuộc chuyển giao triều đại từ họ Lê sang họ Lý đã diễn ra một cách hòa bình êm thấm. Lý Công Uẩn lên ngôi vương, triều Lý được thành lập, công lao đó thuộc về Thiền sư Đạo Hạnh cùng những bài kệ, sấm ký kỳ lạ của ông và sự hợp tác vận động ngầm trong triều của quan Chi Hậu Cam Mộc - một người rất mực trung hậu và quyết đoán trong triều.
Trong gần 20 năm làm vua (1010 - 1028), ngoài những công lao to lớn đối với nhà Lý trên phương diện kinh tế, văn hóa, củng cố tư thế độc lập tự chủ dân tộc, ông đã có một đóng góp nổi bật mang ý nghĩa lịch sử đó là công cuộc thiên đô từ Hoa Lư ra Thăng Long, mở đầu cho một giai đoạn mới có ý nghĩa quyết định tới vận mệnh dân tộc của đất Thăng Long nói riêng và cả nước nói chung.
Nước Đại Cồ Việt đầu thế kỷ XI đã diễn ra một sự kiện lịch sử trọng đại, đánh dấu bước phát triển quan trọng của quốc gia phong kiến độc lập. Đó là cuộc dời đô từ Hoa Lư về Đại La, Thăng Long - Đông Đô và là Hà Nội ngày nay. Sự kiện đó gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp của Lý Công Uẩn, vị vua sáng nghiệp triều Lý (1009 - 1225), một trong những triều đại hùng mạnh nhất trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam.
Từ khi lên ngôi, Lý Công Uẩn đã thực thi nhiều chính sách cai trị nước mang tinh thần vị tha, bác ái và chủ nghĩa nhân đạo cao cả. Phải chăng điều đó xuất phát từ nguồn gốc nhà chùa, chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng Phật giáo của ông, cũng như trong quyết định dời đô sáng suốt của ông có sự tham mưu của Lý Khánh Văn và Đạo Hạnh (lúc này đã là quốc sư).
Nước Đại Việt kể từ các triều đại vua Hùng đã diễn ra nhiều cuộc định đô và dời đô, mỗi lần như vậy hoặc là phản ánh yêu cầu khác nhau của từng giai đoạn lịch sử, hoặc là chọn vùng ảnh hưởng của người đứng đầu và thông thường là quê hương. Vì thế mới có đất Phong Châu của vua Hùng, Cổ Loa của Thục Phán, Mê Linh của Hai Bà Trưng, Hoa Lư của Đinh Bộ Lĩnh...nhưng đến Công Uẩn thì ông lại không chọn Bắc Ninh, mặc dù đó là quê gốc mà chọn Đại La. Điều đó chứng tỏ Lý Thái Tổ đã không chỉ có tầm nhìn chiến lược mà còn thấy rõ được vận hội quốc gia cùng xu thế đi lên của thời đại. Ông đã nhìn thấy được bệ đỡ cho chính quyền trung ương lúc này không còn là thành cao hào sâu nữa mà chính là kinh tế và quân đội, hai yếu tố đó cũng là động lực để phát triển một quốc gia hùng mạnh và thực tế đã đúng như vậy.
Cuộc chuyển đô lịch sử đã đồng thời mang lại nhiều hệ quả tích cực, chính quyền trung ương ở vào nơi trung tâm dất nước, với vị trí giao thông thuận lợi cả bộ lẫn thủy, đây là điều kiện cực kỳ thuận lợi để thâu tóm và chi phối các địa phương đồng thời phát huy được thế mạnh của cả vùng châu thổ sông Hồng. Chuông Quy Điền, tháp Báo Thiên, vạc Phổ Minh, tượng đồng Quỳnh Lâm, bốn vật được coi là tứ đại khí, chính là sản phẩm của giai đoạn này, giai đoạn mà công việc xây dựng và hưng thịnh đất nước bắt đầu bước vào quy mô lớn. Tiếp theo là hàng loạt các công trình khác cũng được các vua kế nghiệp nhà Lý phát huy: 1042 ban bộ hình thư, 1070 dựng Văn miếu, 1076 Quốc Tử Giám được thành lập, nền đại học Việt Nam bắt đầu hình thành Đặc biệt cuộc Nam Chinh, Bắc phạt dưới thời Lý thắng lợi đã chứng tỏ sự vững mạnh về kinh tế và quân sự của thời đại này.
Từ một sự lựa chọn sáng suốt của Lý Thái Tổ ở thế kỷ XI, Thăng Long - Hà Nội đã đi vào lịch sử đất nước như một thủ đô của muôn đời. Điều đó càng cho thấy giá trị trường tồn của chiếu dời đô mà nhà vua đã công bố cách đây ngót 1000 năm. Đối với lịch sử Việt Nam, chiếu dời đô của Lý Thái Tổ ngoài ý nghĩa là một tuyên cáo cho kỷ nguyên độc lập và phát triển lớn mạnh của dân tộc, nó còn là những phác thảo đầu tiên cho cả một hệ tư tưởng Lý. Ở đây với các yếu tố Phật, Nho, Đạo đã kết hợp nhuần nguyễn với các yếu tố tín ngưỡng và truyền thống dân tộc tạo nên áng thiên cổ hùng văn, để rồi tiếp nối sau đó là các áng văn hùng tráng như Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ, Cáo bình ngô và Tuyên ngôn độc lập đã làm thành một dòng văn hùng khí Thăng Long mà Lý Thái Tổ - vị vua khai nghiệp nhà Lý, đặt mốc Thăng Long đã khơi nguồn.
câu 3
Tại sao Lý Công Uẩn dời đô về Đại La (Thăng Long)?
Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi
Vui | Buồn | Bình thường |