Nguyễn Trãi viết: “Túi thơ chứa hết mọi giang san”. Quả thật Ức Trai đã đi nhiều nơi, thăm nhiều danh thắng. Với lòng yêu thiên nhiên say đắm, với hồn thơ rộng mở, nhạy cảm và tinh tế, tới đâu Nguyễn Trãi cũng có thơ về cảnh đẹp non sông đất nước. Người đọc ngày nay có thể tìm thấy một bộ sưu tập phong cảnh Việt Nam rất phong phú và đa dạng qua tập thơ chữ Hán – Ức Trai thi tập: núi Côn Sơn, núi Yên Tử, cảng Vân Đồn, chùa Tiên Du, chùa Đông Sơn, núi Long Đại, núi Lam Sơn... Đặc biệt, Nguyễn Trãi có nhiều thơ về các địa danh ở Ninh Bình, tạo nên một quần thể danh thắng của vùng “vịnh Hạ Long cạn” này: núi Dục Thuý, cửa biển Thần Phù, trấn Vịnh Doanh. Trong quần thể danh thắng đó, nổi bật lên là Dục Thuý sơn. Trước đây núi có tên là Sơn Thuý. Tên Dục Thuý là do Trương Hán Siêu đặt. Có người giải thích núi giống hình chim trả, lại ở trên bờ sông, nên gọi là Dục Thuý, với nghĩa là chim trả tắm (dục: tắm, thuý: chim trả). Không rõ Trương Thiếu bảo gọi là Dục Thuý sơn có phải vì lẽ đó không, hay chỉ đơn thuần là núi tắm trong xanh biếc (thuý. xanh biếc). Dù thế nào thì tên gọi Dục Thuý sơn cũng rất đẹp và thơ mộng, người chưa được đến thăm có thể qua tên mà hiểu cảnh. Từ lâu Dục Thuý sơn đã là đề tài hấp dẫn của thi ca. Nhiều thi sĩ lừng danh đã có thơ về danh thắng này như Trương Hán Siêu, Phạm Sư Mạnh. Lê Thánh Tông, Tản Đà... Tuy nhiên tình của Nguyễn Trãi đối với Dục Thuý sơn, thơ của Nguyễn Trãi về Dục Thuý sơn vẫn có những nét riêng. Nguyễn Trãi viết Dục Thuý sơn với hai nguồn cảm hứng: cảm hứng thiên nhiên và cảm hứng hoài cổ. Ở nguồn cảm hứng nào người đọc cũng thấy những nét riêng, độc đáo của Ức Trai. Trong dòng cảm hứng yêu thiên nhiên, yêu cảnh đẹp đất nước, tác giả đến với Dục Thuý sơn. Nhưng Dục Thuý sơn với Ức Trai dường như có mối duyên riêng, nhà thơ thường tới viếng thăm: Tiền niên lũ vãng hoàn (Năm xưa (ta) từng lui tới đây nhiều lần) Không rõ trong đời mình Ức Trai bao lần đặt chân lên núi Dục Thuý, nhưng ở thơ chữ Hán đã có lần ông nhắc tới: Dục Thuý vũ tình phong tự ngọc (Dục Thuý mưa tan non tựa ngọc) (Vọng Doanh) Nhà thơ có một ấn tượng sâu sắc về danh thắng này, đó là “núi tiên”, “cảnh tiên”. Trong một đoạn thơ ngắn, thi sĩ hai lần dùng từ tiên làm định ngữ để nói về núi Dục Thuý, về cảnh Dục Thuý. Thơ Đường có phép kị trùng chữ. Nhưng ở đây để làm nổi bật vẻ đẹp thần diệu của Dục Thuý sơn. Nguyễn Trãi đã bất châp luật kiêng kị đó đế phóng bút dùng hai chữ tiên. Trong cảm nhận ngôn ngữ của người Việt, tiên thường gợi lên sự thần diệu, phi thường, thoát tục (phép tiên, cầu tiên) sự sung sướng, hạnh phúc (sướng như tiên), vẻ đẹp (đẹp như tiên). Từ tiên trong “núi tiên”. “cảnh tiên” gây ấn tượng sâu sắc về vẻ đẹp huyền ảo của Dục Thuý sơn. Người không mang cảm quan tôn giáo, nước cảnh đẹp cũng như đang vào cõi mộng, cõi tiên. Cái hiện hữu được khẳng định (hữu tiên san) càng làm nổi bật cái hư ảo, kì diệu: Tiên cảnh truỵ trần gian (Như cảnh tiên rơi xuống cõi trần) Dục Thuý sơn là sáng tạo tuyệt vời của hoá công, không phải cho cõi trần, không phái từ cõi trần mà cho tiên giới, từ liên giới. Một chút “vô thức” (đánh rơi) đã tô điểm thêm vẻ đẹp hạ giới. Tác giả dùng hình tượng hoa sen để gợi tả vẻ đẹp Dục Thuý sơn. Dù không bắt nguồn từ cảm hứng tôn giáo thì hình tượng đó vẫn mang đậm dấu ấn linh thiêng thoát tục của Phật giáo: Liên hoa phù thuỷ thượng (Núi tựa (như) đoá hoa sen nổi trên mặt nước) Về mặt liên tưởng, nhà thơ đã có liên tưởng khá xác thực – núi trên dòng sông với đoá sen trên mặt nước. Về mặt nội dung thẩm mĩ, hoa sen là biểu tượng của vẻ đẹp tinh khiết, rất phù hợp với cảnh tiên, non tiên. Nhìn chung, trong bốn câu thơ đầu tác giả tập trung cảm hứng vào vẻ đẹp thần tiên, huyền ảo của Dục Thuý sơn. Nguổn cảm hứng đó bất chợt không liền mạch khi tác giả phát hiện ra một vẻ đẹp khác, không kém mĩ lệ mà lại có phần quyến rũ hơn, say người hơn: Tháp bảo trâm thanh ngọc Ba quang kính thuý hoàn. (Bóng ngọn tháp (trên núi trông giống như cái) cái trâm bằng ngọc xanh Ánh sáng (lấp lánh trên) sóng nước tự như gương soi mái tóc xanh (biếc). Khoan nói tới những nét đặc sắc đầy tính nhân văn trong hình tượng thơ Ức Trai. Hãy nói đến người đầu tiên, sáng tạo ra hình ảnh này – nhà thơ Trương Hán Siêu: Trung lưu quang tháp ảnh (Giữa dòng in bóng tháp) (Bài Dục Thuý sơn của Trương Hán Siêu) Thi sĩ lớn đời Trần chú ý đến vẻ đẹp của bóng tháp in trên dòng sông, kể cũng đã là người biết thưởng thức, biết phát hiện ra vẻ đẹp. Tuy nhiên, ngọn tháp trong thơ và trong văn Trương Hán Siêu vẫn là hình ành ngọn tháp thật, chưa thấm hồn người: “Tháp xây bốn tầng, đêm toả hào quang, kẻ xa người gần đều trông thấy rõ” (Bài kí Tháp Linh Tế ở núi Dục Thuý). Và nếu có cảm xúc thì đó là cảm xúc về vẻ đẹp kì vĩ của ngọn tháp: “Tháp cao sừng sững, thế chạm trời xanh, tô thêm vẻ đẹp của non sông, tranh công xây dựng cùng tạo hoá” (Bài kí Tháp Linh Tế ở núi Dục Thuỷ). Cảm xúc của Trương Hán Siêu là cảm xúc của người yêu thiên nhiên, có pha chút hứng khởi, tự hào, chưa có gì đặc biệt. Hình tượng ngọn tháp trong thơ Nguyễn Trãi là một sự kế thừa nhưng đã nâng cao lên rất nhiều, đã thành một sáng tạo vô cùng độc đáo: bóng tháp in trên dòng sông như chiếc trâm ngọc bích cài trên mái tóc dài xanh mướt của người thiếu nữ. Một liên tưởng hết sức hợp lí nhưng cũng hết sức bất ngờ. Cảnh vật không chỉ nên thơ, nên hoạ mà còn mang cả hồn người. Nguyễn Trãi đem cả tình đời, tình yêu nhuốm vào cảnh vật. Ức Trai đã cảm xúc vẻ đẹp của ngọn tháp, của dòng sông không phải như đứng trước một cành tượng hùng vĩ mà như đứng trước một thiếu nữ. Chính chất đa tình này đã làm nên vẻ đẹp độc đáo và đầy tính chất nhân văn của thơ Nguyễn Trãi, đã làm nên cá tính sáng tạo của thi sĩ. Trong bài Cây chuối. Nguyễn Trãi đã nhìn đọt lá chuối non qua lăng kính tình yêu để có “Tình thư một bức phong còn kín” thì ở bài Dục Thuý sơn tác giả cũng nhìn bóng tháp, dòng sông với lăng kính ấy. Có điều cần nói thêm về bản dịch: “Bóng tháp hình trâm ngọc. Gương sông ánh tóc huyền” đã không lột tả được màu xanh trong của trâm ngọc (thanh ngọc), màu xanh biếc của tóc (thuý hoàn) nên làm mất đi cái nhìn rất trẻ, rác đa tình của tác giả. Đọc những câu thơ tả cảnh Dục Thuý sơn của Ức Trai, ta tưởng chừng nhà thơ đã thả hết hồn mình vào cảnh vật, chỉ còn biết ngất ngây, say đắm trước thiên nhiên. Nhưng thật bất ngờ và kì lạ, mạch cảm hứng của thi nhân bỗng nhiên đột ngột chuyển hướng: Hữu hoài Trương Thiếu bảo Bi khác tiển hoa ban (Nhớ ông Thiếu bảo người họ Trương Bia khắc (của ông) đã lốm đốm hoa rêu) “Hữu hoài” dịch là “nhớ xưa”, chưa lột tả được cảm xúc hoài niệm về quá khứ có pha chút hoài cổ của nhà thơ. Nguyễn Trãi nhớ về Trương Hán Siêu và ngậm ngùi khi thấy bia khắc của ông đã lốm đốm hoa rêu phủ. Tâm trạng Ức Trai có phần giống tâm trạng Trương Hán Siêu thuở trước khi thấy cảnh Dục Thuý “sự hưng vong thành bại mới trải hai trăm mấy mươi năm mà đã trở thành dấu vết cũ kĩ” (Bài kí Tháp Linh Tế ở núi Dục Thuý). Đó là cảm hứng hoài cổ bắt nguồn từ lẽ hưng vong của tạo hoá. Tuy nhiên, cảm hứng hoài cổ của Nguyễn Trãi khác cảm hứng hoài cổ mà ta thường gặp ở nhiều tác giả văn học trung đại. Trong thơ Ức Trai luôn có sự đổi lập giữa tạo hoá vĩnh hằng và con người trong khoảnh khắc: Kim cổ vô cùng giang mạc mạc, Anh hùng hữu hận, diệp tiêu tiêu (Xưa nay thời gian không cùng (như) dòng sông bát ngát, Đời anh hùng mang mối hận (như) lá rụng veo veo). (Vãng hứng) Ở bài Dục Thuý sơn cũng có sự đối lập nói trên: cảnh vật còn đây, bia đá còn đây, nhưng nét chữ đang mờ dần bởi rêu phủ và Trương Thiếu bảo không còn. Con người – một thực thể khát khao sống, khát khao yêu thì cuộc đời “hữu hạn”, còn tạo vật – thực thể vô tri lại tồn tại vĩnh hằng. Nguyễn Trãi buồn, xót xa, ngậm ngùi vì lẽ đó. Cũng chính vì vậy mà nỗi buồn hoài cổ của Nguyễn Trãi là nỗi buồn mang giá trị nhân bản sâu sắc. Từ những điều phân tích ở trên, có thế nói bài thơ Dục Thuý sơn đã đem đến cho người đọc nguồn cảm xúc thẩm mĩ dồi dào: cảm xúc về vẻ đẹp của danh thắng, vẻ đẹp của hình tượng nghệ thuật và đặc biệt là vẻ đẹp của tâm hồn Ức Trai: yêu thiên nhiên, yêu đất nước, giàu chất nhân văn.