Bằng cách nhấp vào Đăng nhập, bạn đồng ý Chính sách bảo mật và Điều khoản sử dụng của chúng tôi. Nếu đây không phải máy tính của bạn, để đảm bảo an toàn, hãy sử dụng Cửa sổ riêng tư (Tab ẩn danh) để đăng nhập (New Private Window / New Incognito Window).
Kim Lân là một nhà văn chuyên viết về những người nông dân, về làng quê nông thôn Việt Nam. Tiêu biểu trong các sáng tác của ông phải kể tới truyện ngắn “Làng”. “Làng” là tác phẩm ngợi ca lòng yêu nước thống nhất cùng tình yêu làng quê, ngợi ca ý thức cách mệnh của những người dân quê chất phác, hiền lành. Điều đó được trình bày rõ nét qua nhân vật ông Hai – một người dân nghèo nhưng có một tình cảm gắn bó với quê hương thâm thúy.
Đối với những người dân nông thôn nghèo, làng ko chỉ là một đơn vị hành chính, nó là tất cả, là quê hương, là nơi họ hàng, dòng tộc cùng nhau sinh sống, là nơi con cái trưởng thành, là chốn linh thiêng nương tựa tâm hồn,… Làng lưu giữ những thứ đơn sơ, giản dị nhưng thân thuộc, gắn bó với mỗi con người. Với truyện ngắn “Làng”, Kim Lân, đã khắc họa nổi trội tình yêu làng, tình yêu nước của nhân vật ông Hai.
Ông Hai là một người nông dân nghèo, siêng năng chịu thương chịu khó làm ăn và là một con người vô cùng tự hào về làng của mình. Nghe theo lệnh của Uỷ ban kháng chiến, ông rời làng lên khu tản cư. Sống ở nơi đất khách quê người, thế nhưng ông Hai luôn đau đáu trong lòng nỗi nhớ quê. Trước đây, đi đâu ông Hai cũng khoe về làng mình, mặc kệ người khác có nghe hay ko, ông chỉ nói cho thỏa niềm mong mỏi, nỗi nhớ da diết của mình đối với làng. Lời kể của ông qua mỗi thời kì lại chuyển đổi, duy chỉ có lòng yêu làng là vẫn vẹn nguyên qua bao năm tháng. Ở nơi tản cư, vẫn là làm lụng, cuốc đất trồng trọt, thế nhưng ông Hai hay hoài niệm về những ngày “cùng làm việc với anh em”, cùng “đào đường đắp ụ, xẻ hào, khuân đá,…”, “cũng cuốc mê man cả ngày”. Những lúc đấy, ông thấy “mình như trẻ ra. Cũng hát hỏng, cũng bông phèng”. Càng nghĩ về những tháng ngày còn được ở làng, nỗi nhớ làng trong ông càng da diết, triền miên “Chao ôi! Ông lão nhớ làng, nhớ cái làng quá!”. Nỗi nhớ đấy là tình yêu làng, là nỗi khát khao được trở về nơi xóm làng thân thuộc, để cùng anh em “dựng chòi”, đào “đường hầm bí mật”. Yêu làng, yêu kháng chiến, vậy nên dù ở nơi tản cư, dù bận rộn với công việc đồng áng, thế nhưng ông Hai vẫn giữ cho mình thói quen vào phòng thông tin để nghe tin tức của kháng chiến, tin tức về làng của ông. Trên đường, ông gặp người nào cũng “níu lại, cười cười” rồi nói bằng cái giọng cười vui vẻ: “Nắng này là bỏ mẹ chúng nó”. Lúc nghe thấy những thắng lợi của quân ta, của kháng chiến, ông lão vui tươi tới độ “ruột gan ông cứ múa cả lên, vui quá!”. Có thể nói, ông Hai ở nơi tản cư nhưng tấm lòng vẫn luôn hướng về quê hương, hướng về kháng chiến, ko hề thay đổi.
Thế nhưng biến cố ập tới khiến ông ko thể ngờ được. Tấm lòng yêu làng của ông đứng trước một thử thách lớn lao. Đó là lúc đang vui tươi trước tin thắng lợi, lúc “những ý nghĩa vui thích chen chúc trong đầu óc” của ông thì ông Hai gặp mặt những người tản cư từ dưới đi lên. Nghe thấy cái tên làng Chợ Dầu của mình bật ra từ mồm người nữ giới tản cư, ông Hai giật thột “quay phắt lại, lắp bắp hỏi: “Nó… Nó vào làng Chợ Dầu hở bác? Thế ta giết mổ được bao nhiêu thằng?”. Thế nhưng đáp lại lời của ông, người nữ giới lại trả lời một cái tin như sét đánh ập thẳng vào tai của người nông dân già: “Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây”. Cái tin dữ làm cho ông Hai như chết lặng, “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rần rần. Ông lão lặng đi, tưởng như tới ko thể thở được”. Kim Lân đã mô tả thật tài tình toàn cầu nội tâm của ông Hai, nó chân thực qua từng nét mặt, từng cử chỉ hành động. Cái tin làng Chợ Dầu của ông theo giặc làm cho ông như bị bóp nghẹt trong đớn đau, sợ hãi. Ông không thể tiếp thu được, nhưng liên tục hỏi lại trong niềm hi vọng điều ông vừa nghe chỉ là một cái tin đồn: “Liệu có thật ko hở bác? Hay là chỉ lại…” . Đáp lại tiếng hỏi với cái “giọng lạc hẳn đi” của ông Hai là lời đáp chắc như đinh đóng cột “Việt gian từ thằng chủ tịch nhưng đi cơ ông ạ”. Bao nhiêu nỗi nhớ mong, khát khao được trở về làng, tình yêu làng, niềm tự hào về làng trong ông bỗng chốc sụp đổ, vỡ vụn. Ông ko đủ dũng cảm để nghe tiếp câu chuyện của người nữ giới nọ, cũng ko dám nghe những lời bàn tán về cái làng nhưng ông nhất mực tin yêu. Ông Hai đứng dậy, vội vã, bâng quơ, lấy lí do để trở về nhà. Những lời hội thoại đấy mới đắng cay, đau xót, mới tàn nhẫn làm sao! Nó như cứa vào tâm can ông Hai những vết cắt đớn đau, bởi ông là một người con của làng Chợ Dầu, ông yêu cái làng đó biết bao nhiêu, vậy nhưng giờ đây lại nghe được tin cả làng ông theo giặc. Nỗi đau đấy, sự nhục nhã, tủi nhục đấy làm cho ông “cúi gằm mặt xuống nhưng đi”.
Trở về nhà, bao nhiêu thú vui nghe tin thắng lợi lúc từ phòng thông tin bay biến hết, ông Hai “nằm vật ra giường”. Bao nhiêu suy nghĩ cứ đan xen, lẩn khuất trong tâm trí ông. Ông nghĩ về cái làng của mình, nghĩ về những đứa con nhưng những xúc cảm trong ông dâng trào, trở thành những giọt nước mắt “giàn ra” trên khuôn mặt già nua. Ông đắng cay và tủi nhục biết chừng nào, bao câu hỏi cứ đua nhau xâu xé tâm can ông: “Chúng nó cũng là trẻ em làng Việt Gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng đấy tuổi đầu,…”. Kim Lân đã dựng lên một đoạn độc thoại nội tâm vô cùng xuất sắc, khắc hoạ thành công tâm trạng đan xen, xâu xé trong lòng lão nông dân già đấy. Ông thương xót con, thương cho chính bản thân mình, những con người giờ đây đã trở thành những kẻ tội đồ, những kẻ thuộc “cái giống Việt gian bán nước”. Ông phẫn nộ tới tận xương tuỷ lũ phản đồ theo giặc, bao nhiêu dồn nén trong lòng, ông “nắm chặt hai tay lại nhưng rít lên” trong đớn đau, xót xa, tủi nhục: “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm nhưng đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”. Thế nhưng, dù có cực khổ, có dằn vặt nhưng ông vẫn ko tin rằng làng mình, ngôi làng nhưng mình yêu quý, thân thuộc lại trở thành Việt gian. Ông “kiểm điểm từng người trong óc”, lật tìm trong sự ghi nhớ của mình. Họ đều là những người anh em của ông, họ “toàn là những người có tình thần nhưng mà” làm sao có thể “cam tâm làm điều nhục nhã” như là Việt gian cơ chứ? Ông Hai cố bám víu vào chút niềm tin cuối cùng. Vậy nhưng “thằng chánh Bệu thì đích thị người làng ko sai rồi. Ko có lửa làm sao có khói?”. Những dòng suy nghĩ đấy ồ ạt tới, lan tràn trong tâm trí của ông Hai, dập tắt cái kỳ vọng cỏn con vừa bùng lên trong lòng ông. Nỗi đau xót dâng tràn trong tâm hồn ông, tủi nhục, đớn đau “Chao ôi! Cực nhục chưa, cà làng Việt gian”. Đó là tiếng thét lên đầy uất hận, đớn đau của một trái tim đau đáu hướng về quê hương, từ một tâm hồn lúc nào cũng tự hào về cái làng của mình. Ông Hai đau cho mình, ông còn đau cho cả những người dân làng Chợ Dầu đang tan tác khắp nơi nữa, họ đều là đồng hương và giờ đây trở thành những kẻ mang tội vì ở trong một cái làng Việt gian bán nước.
Nỗi đau, sự bứt rứt khiến ông Hai bật ra những lời gắt gỏng với vợ mình. Sự dồn nén tích tụ trong tâm can ông, ông ko muốn người nào nhắc tới những điều tồi tệ đấy. Những nỗi lo bủa vây lấy ông, lo bị mụ chủ nhà đuổi, lo ko người nào chứa chấp những người của làng Việt gian,… Những nỗi lo lắng và cả niềm đau hành tội tâm hồn ông làm cho ông “rũ ra trên giường”, “trằn trọc” và “thở dài”, “trống ngực đập thình thịch”. Đó là một lẽ đương nhiên, bởi biết bao cuộc kháng chiến của dân tộc ta thắng lợi là vì chúng ta có một lòng yêu nước nồng nàn, căm ghét lũ giặc cướp nước, kinh tởm những kẻ tay sai, Việt gian theo giặc.
Từ lúc nghe tin dữ, ông Hai dường như trở thành một con người khác. Ông ăn ko ngon, ngủ ko yên, lúc nào cũng cảm thấy mình như một kẻ mang tội và thom thóp trong nỗi tủi nhục. Nếu trước kia, ông thường ra đường, tới phòng thông tin “nghe lỏm” người ta đọc báo thì nay, ông “chỉ quanh quẩn trong cái gian nhà chật chội đấy nhưng nghe ngóng”, ông ko dám bước ra khỏi nhà. Và như một lẽ đương nhiên, ông Hai sợ cả những từ như “tiếng Tây, Việt gian, cam-nhông,…”, tất cả những tiếng đấy làm ông “chột dạ”. Ông tránh né những gì liên quan tới cái tin dữ ông đã nghe, và gọi đó là “chuyện đấy”. Bởi nỗi đớn đau, tủi nhục ê chề đã khiến ông chẳng dám đương đầu với câu chuyện đau xót về cái làng của mình. Ông Hai – một lão nông giàu tình yêu nước, chất phác, luôn tự hào về làng của mình, nhận cái tin làng Chợ Dầu mình luôn tin tưởng, tự hào đấy theo giặc thì đó quả là một nỗi uất ức, nhục nhã tới khôn xiết. Bởi với ông, làng là quê hương, là máu thịt, là danh dự của cả cuộc đời ông.
Lúc mụ chủ nhà đánh tiếng đuổi gia đình ông, ông Hai lại đứng trước một lựa chọn mới, chọn làng hay chọn Tổ quốc. Với một con người yêu làng như ông Hai, đã có lúc ông nghĩ rằng “Hay là trở lại làng?”, nhưng suy nghĩ đó ngay tức khắc bị ông không thừa nhận bởi “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ”. Mặc dầu đó là ngôi làng nhưng ông yêu quý, ngôi làng nhưng ông gắn bó và tự hào, ngôi làng nhưng ông luôn khát khao được trở về. Lòng ông mới thật đau nhói, thật xót xa, vô vọng biết bao. Đọc tới đây, ta mới hiểu được lòng yêu nước của mỗi người dân Việt Nam to lớn tới nhường nào, như ông Hai, là một người yêu làng, yêu quê hương tới cháy bỏng, vậy nhưng lúc đứng trước lựa chọn, ông vẫn một lòng hướng về cách mệnh, hướng về kháng chiến. Ông đã quyết định một cách dứt khoát rằng: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Đó là thứ tình cảm rành mạch, cứng ngắc của những người dân quê nghèo nàn, ít học, là tình yêu nước thiết tha, mạnh mẽ, thiêng liêng.
Ở nhà ko được ra ngoài, phải quanh quẩn trong cái gian nhà nhỏ tí tẹo đã khiến tâm trạng ông Hai bị dồn nén. Nếu là ngày trước, ông đã chạy ngay sang nhà bác Thứ để trò chuyện, để tâm tình, thế nhưng giờ đây, ông chỉ dám tâm tình cùng đứa đàn ông nhỏ. Ông hỏi nó về làng, cho thoả nỗi mong nhớ quê, và cũng là để đàn ông ông có thể khắc ghi trong tâm tưởng như ông rằng quê hương của nó chính là Chợ Dầu. Chắc hẳn ông Hai còn yêu làng Chợ Dầu của mình lắm, phải, ông còn yêu lắm, bởi đó là gốc tích, là niềm tự hào của ông từ bao lâu nay. Đồng thời, ông cũng truyền cho con mình thứ tình cảm thâm thúy nhất cuộc đời mỗi con người: tình yêu nước, yêu quê hương. Có thể thấy tình yêu làng và tình yêu nước trong ông đã thống nhất làm một. Câu chuyện của ông với đàn ông chỉ là những lời nói để ông Hai có thể vơi bớt những nỗi niềm trong lòng, và để chứng minh tấm lòng trong sạch của mình “ông nói như để ngỏ lòng mình, như để mình lại giải oan cho mình nữa”. Ông Hai là hình ảnh tiêu biểu của người nông dân Việt Nam chất phác, hồn hậu, trong hoàn cảnh đớn đau nhất vẫn luôn ngời sáng tình yêu tổ quốc, yêu quê hương.
Thế nhưng đêm đen rồi cũng qua đi, rạng đông rồi cũng tỏa sáng, những tủi nhục nhường chỗ cho thú vui, rạng rỡ. Cái tin cải chính về làng ông cũng tới bất thần như cái tin dữ làng Chợ Dầu theo Việt gian. Và có nhẽ chính điều đó đã hồi sinh một ông lão đang thất thần, cứu rỗi tâm hồn ông, rũ sạch hết thảy những cực khổ, tủi hờn trước đó. Chiều hôm đó, ông ra ngoài theo một người đàn ông lạ mặt sau bao ngày quanh quẩn nơi xó nhà. Trở về nhà, thay vì khuôn mặt xám xịt, nhăn nhó, “buồn thiu” như mọi ngày thì hôm nay ông Hai “tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”. Ông sắm quà cho con, “lật đật” chạy sang nhà bác Thứ nhưng khoe trong thú vui sướng “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ! Đốt nhẵn!”. Chắc hẳn chưa từng có một người nông dân nào lại vui sướng tới vậy lúc nhà mình bị đốt trụi bởi ngôi nhà là thứ nhưng họ phải cày bừa, cuốc mướn bao thời kì mới có được. Thế nhưng điều đó với ông Hai lại là một sự hỉ hả, sung sướng tới vô cùng. Bởi nó là minh chứng rõ ràng nhất cho việc làng ông ko theo Tây, ko theo Việt gian nhưng vẫn luôn theo kháng chiến, theo Cụ Hồ. Và ông Hai, một người con của làng Chợ Dầu thoát khỏi cái danh “người làng Việt gian” để tiếp tục sống và yêu nước trong tử tế, sáng tỏ và hơn thế, là ông lại có thể tiếp tục được tự hào về quê hương của mình. Ta có thể thấy rõ sự tranh chấp trong tình huống này, thế nhưng tranh chấp đó lại rất hợp tình, hợp pháp, nó là minh chứng cho ngòi bút kể chuyện và mô tả tâm lí nhân vật xuất sắc của Kim Lân. Kết thúc câu chuyện là âm thanh nô nức, reo mừng, hoan hỉ tưởng như vỡ oà của ông Hai. Ông là biểu tượng cho những người nông dân Việt Nam, họ thà hi sinh tất cả, hi sinh mảnh vườn, căn nhà, miếng đất chứ nhất quyết ko để tình yêu nước, lòng tự trọng dân tộc bị vấy bẩn.
Qua nhân vật ông Hai, tác giả muốn gửi gắm hình ảnh về những người nông dân Việt Nam chất phác, hồn hậu nhưng lại có trong mình tình yêu làng quê, yêu tổ quốc và ý thức kháng chiến rất thâm thúy. Họ có thể sẵn sàng đánh đổi cả những thứ quý giá nhất của mình để giữ gìn tình yêu nước trong sáng, ý thức tự trọng dân tộc.
Về nghệ thuật, qua truyện ngắn “Làng”, ta có thể thấy được cách xây dựng nhân vật vô cùng lạ mắt của Kim Lân. Tác giả đã đặt nhân vật vào trong tình huống ngặt nghèo để thấy rõ tâm lí, tính cách của nhân vật. Việc mô tả cụ thể từng nét mặt, giọng nói, cử chỉ,… cũng đã tạo nên một nhân vật ông Hai hết sức chân thực, sinh động. Tiếng nói truyện mang đậm tính khẩu ngữ của vùng đồng bằng Bắc Bộ, là lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân.
Có thể nói rằng, nhân vật ông Hai đã làm nên vong hồn cho truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân. Bức chân dung về người nông dân nghèo nhưng đặm đà bản sắc riêng, chứa đựng tình yêu nước nồng nàn làm cho thiên truyện càng thêm thâm thúy. Ông Hai chính là biểu tượng cho những người nông dân nghèo, những con người đã góp phần làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Tham gia Cộng đồng Lazi trên các mạng xã hội | |
Fanpage: | https://www.fb.com/lazi.vn |
Group: | https://www.fb.com/groups/lazi.vn |
Kênh FB: | https://m.me/j/AbY8WMG2VhCvgIcB |
LaziGo: | https://go.lazi.vn/join/lazigo |
Discord: | https://discord.gg/4vkBe6wJuU |
Youtube: | https://www.youtube.com/@lazi-vn |
Tiktok: | https://www.tiktok.com/@lazi.vn |
Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi
Vui | Buồn | Bình thường |