LH Quảng cáo: lazijsc@gmail.com

Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Cảm nhận chữ nhàn trong bài thơ Nhàn

cảm nhận chữ nhàn trong bài thơ nhàn của nguyễn bỉnh khiêm từ đó liên hệ với đoạn thơ sau trong cảnh ngày hè của nguyễn trãi và nhận xét về vẻ đẹp tâm hồn của 2 tác giả
2 trả lời
Hỏi chi tiết
71
Tham khảo câu trả lời từ Trợ lý ảo Lazi
Trong bài thơ "Nhàn" của Nguyễn Bỉnh Khiêm, chúng ta cảm nhận được sự nhàn nhã, thanh thản, bình yên trong cuộc sống của tác giả. Ông miêu tả những hình ảnh thiên nhiên, những hoạt động đơn giản nhưng đầy ý nghĩa như việc ngắm trăng, ngắm hoa, nghe tiếng chim hót, tạo ra một không gian yên bình, tĩnh lặng.

Trong đoạn thơ "Cảnh ngày hè" của Nguyễn Trãi, chúng ta cảm nhận được sự hứng thú, sôi nổi và tươi vui của tác giả khi thưởng thức cảnh đẹp của mùa hè. Ông miêu tả chi tiết về những hình ảnh tươi mới của thiên nhiên như hoa cỏ, nước biếc, nắng vàng, tạo ra một bức tranh sống động, rực rỡ.

Về vẻ đẹp tâm hồn của hai tác giả, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Trãi đều thể hiện sự tinh tế, nhạy bén trong việc lắng nghe và cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên, của cuộc sống xung quanh. Họ đều biết cách tận hưởng những khoảnh khắc nhỏ bé, những điều đơn giản nhưng đầy ý nghĩa, từ đó thể hiện sự nhân văn, tâm hồn thanh thản và sâu lắng của mình.
1
0
+5đ tặng

“ Nhàn ” là một triết lý sống thông dụng được những bậc hiền triết thời xưa hướng đến. Đó là sự nhàn nhã, thảnh thơi, là không bị vướng bận với những nụ cười tầm thường của sự đời. Về chữ nhàn trong hai bài thơ : “ Cảnh ngày hè ” của Nguyễn Trãi và “ Nhàn ” của Nguyễn Bỉnh Khiêm, mỗi tác giả sẽ có những nhìn nhận riêng không liên quan gì đến nhau. 

Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm bộc lộ trước hết ở lối sống hòa hợp, thuận theo tự nhiên : “ Một mai, một cuốc, một cần câu Thơ thẩn dầu ai vui thú nào ” Chỉ với hai câu thơ đầu, người đọc đã hoàn toàn có thể cảm nhận sâu sắc phong thái sống bình dị, an nhàn của thi nhân. Việc sử dụng từ láy “ thơ thẩn ” đã lột tả sự thư thái trong tâm hồn và dần hé lộ ý niệm sống nhàn riêng không liên quan gì đến nhau được biểu lộ ở sự đơn giản và giản dị, từ tốn, xa lánh đời sống tầm thường chỉ vây quanh danh lợi, của cải vật chất. Lối sống nhàn đó liên tục được bộc lộ qua cung cách sống, hoạt động và sinh hoạt của ông qua hai câu thơ sau : Thu ăn măng trúc, đông ăn giá Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao Từng mùa trong năm đều được Nguyễn Bỉnh Khiêm làm điển hình nổi bật lên chỉ với những sự vật đơn giản và giản dị, quen thuộc và đặc trưng. Thức ăn của ông cũng bình dị, dân dã đến lạ lùng cùng với lối hoạt động và sinh hoạt uyển chuyển, thư thái : tắm hồ sen, tắm ao. Cuộc sống của ông thật khiêm nhường, đạm bạc nhưng lại chẳng hề tầm thường. Bởi lẽ, ông đã có đủ an nhàn để cứu rỗi mình thoát khỏi vòng xoáy khắc nghiệt của phường danh lợi, để đem tâm hồn đến gần với vạn vật thiên nhiên, hòa hợp với vạn vật. Xem thêm : Bài thơ Nhàn : Nội dung bài thơ, thực trạng sáng tác, dàn ý nghiên cứu và phân tích tác phẩm Top 2 cách mở bài Nhàn hay nhất Nhàn với Nguyễn Bỉnh Khiêm không chỉ là một cách sống đem đến sự tự do, từ tốn tự tại, mà nó còn là một ý chí kiên trì rời xa phường danh lợi để giữ lấy cốt cách thanh cao : Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ Người khôn người đến chốn lao xao Hai câu thơ trên sử dụng thẩm mỹ và nghệ thuật trái chiều một cách tài tình nhằm mục đích bộc lộ rõ quan điểm sống của thi nhân. Nơi vắng vẻ là nơi yên bình, xa lánh sự ồn ào, tất bật để trả lại cho chính mình một tâm hồn thanh thản. Ngược lại, chốn lao xao là nơi mà con người ta hoàn toàn có thể bỏ lỡ nhân tính mà tìm đủ mọi cách để hãm hại nhau, chung quy lại cũng chỉ vì hai chữ danh lợi. Hai câu thơ mở ra hai khoảng trống khác nhau, cũng chính là hai cách sống khác nhau. Rượu đến cội cây ta sẽ uống Nhìn xem giàu sang tựa chiêm bao Ông uống rượu nào phải để mơ trọn giấc mộng công danh sự nghiệp, ông uống vì muốn bản thân mình luôn luôn tỉnh táo. Từ đó, mới hoàn toàn có thể nhận ra một chân lý vĩnh hằng, rằng phong phú cũng chỉ như một giấc chiêm bao. Trong cuộc sống mỗi con người, liệu giàu sang phong phú có phải là đích đến sau cuối, và chúng có mang lại niềm hạnh phúc, an yên cho tâm hồn tất cả chúng ta ? Hay cái sống sót mãi mãi với mỗi con người chính là nhân cách, là phẩm chất cao đẹp ? Hai câu kết của bài thơ chính là sự khẳng định chắc chắn của tác giả về triết lý sống nhàn. Với ông, sống nhàn là cách sống giữ được nhân cách tốt đẹp, là thời cơ để tu tâm dưỡng tính, là hành trình dài đem lại sự thảnh thơi, thư thái nơi tâm hồn. “ Nhàn ” của Nguyễn Bỉnh Khiêm được tác giả bộc lộ qua thể thơ thất ngôn bát cú đường luật. Với ngôn từ ngắn gọn, hàm súc và giản dị và đơn giản, triết lý sống nhàn của tác giả đã được biểu lộ một cách toàn vẹn. Sống nhàn chính là lối sống thanh cao, hòa hợp với vạn vật thiên nhiên, vạn vật, là tránh xa mọi phường danh lợi tầm thường.

Phân tích chữ nhàn trong cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi Nguyễn Trãi là một tấm gương sáng về lòng yêu nước sâu đậm cùng nhân cách cao đẹp. Nhân cách ấy được bộc lộ qua lối sống giản dị và đơn giản, thân mật với nhân dân, với cuộc sống. Trong đó, “ Cảnh ngày hè ” chính là một tác phẩm bộc lộ rõ tâm hồn cao đẹp của ông. Rồi hóng mát thuở ngày trường, Hoè lục đùn đùn tán rợp trương. Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ, Hồng liên trì đã tịn mùi hương. Bức tranh vạn vật thiên nhiên được tác giả điểm tô với những hình ảnh, gam màu cùng trạng thái rực rỡ. Màu sắc, hình ảnh được tích hợp hài hòa cùng những động từ mạnh có vẻ như đã khiến bức tranh ấy thêm phần sinh động và căng tràn nhựa sống. Dường như mọi thứ đều được tăng trưởng can đảm và mạnh mẽ trước mắt người đọc. Thiên nhiên có vẻ như chẳng còn được cảm nhận qua ánh mắt nữa, mà nó còn được cảm nhận bằng một tâm hồn rộng mở cùng tình yêu vạn vật thiên nhiên tha thiết. Sau bức tranh vạn vật thiên nhiên, Nguyễn Trãi đã đưa người đọc đến với bức tranh đời sống bình dị, quen thuộc nhưng cũng không kém phần sinh động và tràn trề sức sống : Lao xao chợ cá làng ngư phủ, Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương Từ ngôi làng xa xa, âm thanh “ lao xao ” của phiên chợ chiều có vẻ như đang vọng lại. Tiếp đó là tiếng “ dắng dỏi ” của ve gọi hè – một âm thanh đặc trưng chẳng thể thiếu đi trong những ngày hè. Cùng với đó là sự phối hợp bởi mạng lưới hệ thống từ láy gợi thanh và những giải pháp nghệ thuật và thẩm mỹ như hòn đảo ngữ, phép đối đã tạo nên một bức tranh ngày hè sôi động, náo nhiệt. Cũng chính từ đó, người đọc hoàn toàn có thể cảm nhận được tình yêu đời sống, yêu vạn vật thiên nhiên và khát khao được hòa mình vào đời sống muôn dân của thi nhân có tấm lòng rộng mở. Xem thêm : Top 3 cảnh mở bài Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi hay nhất Soạn cảnh ngày hè ngắn gọn, hay nhất Khép lại bài thơ là tâm nguyện của thi nhân : Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng Dân giàu đủ khắp đòi phương Lời nguyện cầu này đã biểu lộ tấm lòng gắn bó, sự ưu tiên và tình yêu của ông so với dân, với nước. Ông chẳng cầu gì cho bản thân, chỉ cầu sao dân no đủ, yên bình. Tóm lại, với cách sử dụng điển tích và phát minh sáng tạo câu thơ lục ngôn một cách độc lạ, riêng không liên quan gì đến nhau, Nguyễn Trãi đã tái hiện một cách sinh động bức tranh vạn vật thiên nhiên và đời sống của con người. Ẩn trong đó là nỗi niềm ưu dân ái quốc, là sự canh cánh không yên trong lòng những mối lo lắng thế sự.

Về chữ nhàn trong hai bài thơ : Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi và Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm Nhàn là sự thảnh thơi, không vướng bận ham muốn tầm thường, nhưng nó cũng không đồng nghĩa tương quan với thái độ lười nhát, trốn tránh nghĩa vụ và trách nhiệm. Nhàn chính là tìm thấy được sự thảnh thơi, thư thả, tự tại trong tâm hồn. Dù trong lúc nhàn. Nguyễn Trãi vẫn luôn canh cánh những nỗi niềm riêng : dân giàu đủ khắp đòi phương. Với Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông chỉ dùng lối sống nhàn để phủ nhận đi những hư danh trong chốn lao xao. Sự quay sống lưng với hư danh để tìm thấy sự thanh thản trong tâm hồn của ông chưa hẳn là sự quay sống lưng với nghĩa vụ và trách nhiệm. Nguyễn Trãi dù lui về ở ẩn, nhưng trong thâm tâm ông vẫn chẳng thể ngưng canh cánh việc nước. Nhàn với ông là khoảnh khắc tạm gạt bỏ việc làm để chiêm ngưỡng và thưởng thức nụ cười thanh nhã của đời sống yên bình, từ tốn tự tại. Ngược lại, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có thời cơ được sống nhàn, nên trong đời sống nhàn ấy, ông hiện lên là một con người triết lý, trí tuệ, từng trải, thâm trầm và thâm thúy. Nguyễn Bỉnh Khiêm luôn nhận ra đâu là thực đâu là hư, tự nhận chính mình dại nhưng thực ra lại vô cùng khôn ngoan khi coi thường hư vinh, thoát khỏi cái trần tục tầm thường. Còn với Nguyễn Trãi, nhàn mà hóa ra lại không nhàn và điều đó đã được biểu lộ qua hai câu thơ cuối : luôn hướng đến dân, đến nước.

     Nói tóm lại, nếu như Nguyễn Bỉnh Khiêm hay ở tài trí, bản lĩnh hơn người thì Nguyễn Trãi lại đẹp ở tâm hồn nghệ sĩ cùng tấm lòng vì dân vì nước, bình dị nhưng cũng thật vĩ đại. Từ đó, mỗi một thi nhân đều có những nhìn nhận riêng, góp phần điểm tô thêm màu sắc cho nghệ thuật văn học nước nhà.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
1
Phuonggg
15/03 09:56:14
+4đ tặng

Lê Quý Đôn từng cho rằng: “Thơ khởi phát từ lòng người ta”. Quả đúng là như vậy, thơ là nơi chứa đựng biết bao nhiêu rung cảm, trăn trở của người cầm bút. Một tác phẩm thơ chân chính, muốn vượt lên sức mạnh của thời gian, của lòng người, ẩn chứa trong đó những tình cảm thật, suy nghĩ thật đã phải trải qua biết bao mồ hôi và nước mắt của nhà thơ. Với “Nhàn”, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã gửi tới người đọc những quan niệm, triết lí sâu sắc về con người, thời đại mà cho đến tận ngày nay người ta vẫn phải suy ngẫm.

“Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn, người đến chốn lao xao.
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Rượu đến cội cây ta sẽ uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.”

Có thể nói từ thế kỉ XV trở đi, thơ Nôm của Việt Nam đã có những thành tựu, đủ sức giữ thế song hành cũng văn học chữ Hán. Các trí thức Nho học, bên cạnh sáng tác chữ Hán bao giờ cũng dành phần ưu ái cho các tác phẩm chữ Nôm. Nếu như Nguyễn Trãi có “Quốc âm thi tập” thì Nguyễn Bỉnh Khiêm có “Bạch Vân quốc ngữ thi”. Khi viết thơ Nôm Đường luật, cả Nguyễn Trãi lẫn Nguyễn Bỉnh Khiêm luôn có ý thức Việt hóa triệt để:

“Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.”

Xét về mặt ngôn ngữ cũng như hình tượng thơ, thơ xưa, nhất là thơ Đường luật thiên về sử dụng những hình ảnh ước lệ, trang nhã hơn là những hình ảnh cụ thể, bình dị như mai, cuốc, cần câu. Số từ trong câu thơ trên cũng là con số thực chứ không phải là những con số ước lệ. Mai dùng để đào đất, cuốc dùng để xới đất, cần câu để câu cá. Đó là những nông cụ lao động dân dã của người nông dân. Với cách điệp số từ một…một…một, tạo nhịp điệu chậm rãi, câu thơ thể hiện tư thế sẵn sàng của Nguyễn Bỉnh Khiêm cho một cuộc sống bình dị, giản đơn. Có thể gọi đây là hiện tượng phá vỡ tính quy phạm và là một cách Việt hóa thể thơ Đường luật. Nguyễn Bỉnh Khiêm chấp nhận cuộc sống cần lao của một lão nông tri điền, mặc cho người đua đòi chạy theo bao thú vui phù phiếm, ông vẫn giữ tâm thế bình thản, điềm nhiên với cuộc sống thanh bần mình đã chọn. Trước hết ta phải hiểu cái nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải là kiểu nhàn hưởng lạc, nhàn lười biếng vì không quan tâm sự đời. Người xưa thường cho rằng “nhàn cư vi bất thiện”, người quân tử có học không bao giờ để thân mình được thảnh thơi. Nguyễn Bỉnh Khiêm hướng đến cái nhàn trong tâm, không vướng bận danh lợi đua chen, tâm nhàn chứ thân không nhàn. Là vị quan từ bỏ cân đai áo mão, ông trở về cuộc sống lao động vất vả, tự cung tự cấp rất lương thiện của những người nông dân nghèo, ông vẫn phải lao động để nuôi sống mình chứ không trông cậy vào bất kì ai, không mang theo vàng ngọc chốn quan trường để về quê hưởng lạc.

Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm thường bàn nhiều về lẽ dại – khôn, vấn đề này không mới đối với tâm thức của người Á Đông xưa nay, một kiểu triết lí theo tinh thần nhân quả của Phật giáo dân gian:

“Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn, người đến chốn lao xao.”

Có thể nói cặp câu thực này đã được Nguyễn Bỉnh Khiêm sử dụng phép đối tương phản để khẳng định sự đối lập gay gắt giữa quan niệm sống của ta và người. Nơi vắng vẻ là nơi lánh xa sự ồn ào, tranh chấp, là miền thôn dã hiền hòa là chốn thiên nhiên thuần phác.

Chốn lao xao là nơi quan trường đua chen, tranh quyền đoạt lợi, là chốn thị thành náo nhiệt, giả trá, lọc lừa. Ta từ bỏ cân đai áo mão, danh lợi, tiền tài để trở về chốn thiên nhiên, miền thôn dã chấp nhận cuộc sống nghèo khó nên ta tự nhận mình dại. Người sống trong vòng danh lợi xô bồ nên người tìm đến chốn quan trường náo nhiệt mà tìm sự thăng tiến, đua đòi quyền lực, địa vi, người nghĩ rằng mình khôn. Những kẻ tầm thường sẽ luôn hiểu như thế. Nhưng hai câu thơ là một cách nói mỉa mai ngược giọng, kẻ tưởng mình khôn mà hóa ra là dại, kẻ nhận mình dại thật ra là khôn. Nguyễn Bỉnh Khiêm có 2 câu thơ khác cắt nghĩa điều này rõ hơn:

“Khôn mà ác hiểm là khôn dại,
Dại vốn hiền lành ấy dại khôn.”

Sống trong một thời đại mà triều chính nhiễu nhương, vua không anh minh lại thiếu bề tôi hiền thì liệu cái chí tu, tề, trị, bình của một người trí thức Nho học chân chính có thể nào thực hiện được chăng? Muốn tồn tại trong bối cảnh nhà Mạc đương thời, kẻ làm quan như Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ có thể dửng dưng trước thời cuộc để yên thân hoặc chấp nhận đánh mất khí tiết, vào lòn ra cúi, xuôi theo bọn gian thần xu nịnh để được thăng tiến.

Chốn quan trường, chốn thị thành nói chung là nơi con người phải tranh chấp, phải hơn thua, phải dùng trí xảo, mưu mô để đạp lên nhau mà sống và dành lấy địa vị…Chốn lao xao là môi trường dễ khiến kẻ sĩ đánh mất khí tiết và nhân phẩm, thậm chí trở nên tàn độc hại người. Cái khôn ấy là cái khôn thâm ác, xảo trá, theo quy luật nhân quả sớm muộn cũng sẽ lãnh lấy quả báo và đánh mất đi chính mình. Còn Nguyễn Bỉnh Khiêm lựa chọn lối sống ẩn dật, ông tự nhận mình dại vì chê danh lợi nhưng đó là cái dại thức thời, cái dại của kẻ hiểu được quy luật vần xoay của thế sự nhân sinh…Ông từ bỏ tất cả để đổi lấy trạng thái bình yên, thanh thản của tâm hồn, giữ vững khí tiết của người có học…

Cái nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm xét ở một khía cạnh nào đó chỉ là một phản ứng bất đắc dĩ đối với thời cuộc để giữ gìn nhân cách của mình chứ nó không phải là lí tưởng sống. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng là bậc đại Nho bước ra từ cửa Khổng sân Trình, ông hiểu sâu sắc triết lí nhập thế để giúp đời, nhưng thời cuộc đảo điên, sau lần dâng sớ đề nghị chém 18 tên lộng thần không thành, ông hiểu rằng mình đành bất lực và từ quan là sự lựa chọn đúng đắn nhất, không thực hiện được hào bão cao cả thì ít ra còn giữ gìn được phẩm tiết.

Nếu như Nho giáo đề cao tinh thần nhập thể cứu đời, đề cao kỉ cương, phép tắc thì Lão – Trang lại muốn tháo tung hết mọi sự ràng buộc, tự nhiên nhi nhiên mà sống. Thế nhưng cả hai tư tưởng này không hề loại trừ nhau mà trở nên cặp đối trọng tồn tại song song trong nền văn hóa Trung Quốc cũng như Việt Nam thời xưa. Các trí thức Nho học Việt Nam một mặt nhất quán tinh thần nhập thế, trả nợ công danh nhưng sâu trong tâm hồn lại khát khao trở về với thiên nhiên, sống cuộc sống tiêu dao tự tại. Họ nhập thế không phải đua đòi quan lộc để được vinh quy bái tổ mà để lo cho dân, bản lai diện mục của họ vẫn là con người yêu chuộng thiên nhiên, xem nó là bản thể, là thiên đường của sự sống thực sự.

“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.”

Hai câu thơ tạo nên bức tranh tứ bình bốn mùa tuyệt đẹp về cuộc sống thanh cao của một con người trở về với tự nhiên. Ở hai câu thực, phép đối tương phản tạo ra sự đối lập gay gắt thì ở hai câu luận này, phép đối tương hổ tạo ra một kết cấu cân xứng hoàn hảo. Ta chú ý đến hai động từ chính trong 2 câu thơ: ăn/tắm. Đó là 2 nhu cầu tối thiểu nhất của con người. Cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm rất đơn giản, chỉ cần ăn đủ để sống và tắm để sạch.

Cuộc sống giản dị ấy được thiên nhiên che chở, đất trời là tặng phẩm là nguồn sống có sẵn không cần phải đua đòi hay tranh giành mới có được. Hay nói đúng ông sống thuận lẽ tự nhiên, mùa nào thức ấy, có chi dùng nấy, rất thong dong, trong lành. Nguyễn Bỉnh Khiêm tả về cuộc sống bình dị của mình tuy nghèo mà không hèn, giọng điệu lại rất lạc quan, sắc thái vô cùng tươi sáng. Điều đó đủ thấy cuộc sống của ông là một chân trời tự do trong lành, ông thực hành đúng cái đạo của hiền nhân: “tri túc”. Cuộc sống này vốn không xa lạ với tâm thức của người xưa:

“Xuân du phương thảo địa,
Hạ thưởng lục hà trì ;
Thu ẩm hoàng hoa tửu,
Đông ngâm bạch tuyết thi.”
(Cổ thi – Trung Quốc)

Nguyễn Bỉnh Khiêm không cần ăn ngon, chẳng màng ăn no, không cần mặc ấm, bởi người trí thức Nho học luôn thấm nhuần đạo lí: quân tử thực vô cầu bão, cư vô cầu an. Cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm là cuộc sống lao động vất vả nhưng lạc quan, ông nhìn cuộc sống ấy rất thi vị. Khi đối sánh với vẻ đẹp sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm ta lại thấy, 4 câu thơ trên gợi tả sự hưởng thụ có phần sang trọng (dĩ nhiên là sự hưởng thụ chính đáng, giản đơn) còn Nguyễn Bỉnh Khiêm lại gợi tả cuộc sống nhàn mộc mạc hơn, ông chỉ hướng đến những nhu cầu tối thiểu để sống chứ không dệt nên kiểu sống thoát li vương giả (ngao du, uống rượu, làm thơ). Bốn câu thơ trên chủ về gợi tả nếp sống phong lưu, tiêu dao tự tại ; tứ thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm thiên về vẻ đẹp đơn giản, trong lành, thuần lẽ tự nhiên. Trong sự cộng hưởng với tâm thức người xưa, cái nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn có sắc thái khác lạ của riêng nó.

Phần hai câu kết được viết theo lối dụng điển quen thuộc xưa nay. Ta liên tưởng đến câu chuyện Thuần Vu Phần uống rượu nằm ngủ dưới gốc cây hòe để thấy được thông điệp của tác giả: công danh chỉ là giấc mộng phù phiếm, tỉnh giấc mọi thứ sẽ tan biến thành hư ảo. Có lẽ điểm nổi bật nhất của hai câu kết là hiện tượng đảo cú pháp ở câu 7: “Rượu đến cội cây ta sẽ uống”. Từ rượu được đưa ra đầu câu, khi đọc phải nhấn mạnh, ngắt thành một nhịp thật sảng khoái để thấy được tư thế tiên phong đạo cốt của tác giả đứng ngoài vòng thế sự.

Nhàn không phải là một lí tưởng nó là một trạng thái sống. Nhàn ở đây là sự thanh thản của tâm hồn không bận tâm bởi danh lợi chứ không phải là cái nhàn hưởng thụ của kẻ lười nhát. Nhàn là không để lòng vấy bẩn bởi sự tranh đoạt quyền lợi, hơn thua với người đời chứ không phải là quên đời, sống ít kỉ, vô trách nhiệm. Bằng chứng là khi từ quan Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn tham vấn chính sự cho nhà Mạc. Nhàn vừa là một khát vọng sống tiềm ẩn trong tâm thức của những nhà Nho có nhân cách vừa là một kiểu phản ứng của người trí thức với thời cuộc đảo điên. Bởi vì nhận ra mình không thể thực hiện được lí tưởng của thánh hiền dạy nên đành thức thời lùi một bước. Phải hiểu như thế mới thấy rằng tư tưởng Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm không hề tiêu cực hay ít kỉ như những kẻ có suy nghĩ máy móc, học thuộc lòng tư tưởng Mác–Lênin mà hiểu không tới nơi dám lên giọng chê bai Nguyễn Bỉnh Khiêm và tinh thần Lão Trang.

Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm không hề đi ngược lại đạo đức Nho học, rất hài hòa với tinh thần Lão Trang và cả Phật giáo. Nó là một đóa hoa thơm ngát được kết tinh từ vẻ đẹp bảng lảng của 3 tôn giáo tuyệt đẹp và vẫn còn giữ nguyên giá trị đến ngày nay. Kẻ thức thời, thông lào đạo Trung Dung sẽ không vội phê phán Nguyễn Bỉnh Khiêm tiêu cực, ít kỉ bởi Khổng Tử từng nói: trí giả nhạo thủy, nhân giả nhạo sơn. Trong tiếng Hán, chứ tiên (thần tiên) được tạo nên từ chữ nhân và chữ sơn. Trở về với thiên nhiên là tinh thần đẹp ăn sâu trong tâm thức của người Á Đông xưa nay. Kẻ sĩ muốn đạt được chữ nhân (lòng thương người) và đạt được chính tâm thì nên tìm về thiên nhiên mà di dưỡng, thiên nhiên là bản thể, là bản lai diện mục của con người.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan
Bài tập Ngữ văn Lớp 10 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư