Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phân tích bài đoàn thuyền đánh cá

phân tích bài đoàn thuyền đánh cá 
 
2 trả lời
Hỏi chi tiết
54
Tham khảo câu trả lời từ Trợ lý ảo Lazi
Bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá" của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm là một tác phẩm nổi tiếng trong văn học Việt Nam, thể hiện tinh thần đoàn kết, sự hy sinh và khát vọng sống tự do của người dân Việt Nam trong cuộc chiến tranh chống Pháp.

Bài thơ mô tả hình ảnh một đoàn thuyền đánh cá đang ra khơi, gặp phải cơn bão lớn. Trong cơn bão, các thủy thủ không sợ hãi mà cùng nhau vượt qua khó khăn, hy sinh vì mục tiêu chung là bảo vệ quê hương. Tác giả đã sử dụng hình ảnh của đoàn thuyền như một biểu tượng cho tinh thần đoàn kết, sự hy sinh và quyết tâm của người dân Việt Nam trong cuộc chiến tranh.

Bài thơ cũng thể hiện sự đau xót, nhớ nhung của tác giả với những người lính đã hy sinh trong cuộc chiến tranh. Tác giả muốn gửi đi thông điệp về tinh thần đoàn kết, sự hy sinh và quyết tâm của người dân Việt Nam trong cuộc chiến tranh chống Pháp.

Tóm lại, bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá" là một tác phẩm văn học nổi tiếng với thông điệp về tinh thần đoàn kết, sự hy sinh và quyết tâm của người dân Việt Nam trong cuộc chiến tranh chống Pháp.
2
0
quangcuongg
03/04 19:35:40
+5đ tặng

Biển cả luôn là nguồn đề tài phong phú cho những sáng tạo nghệ thuật. Nếu Tế Hanh nhớ "Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi", Xuân Diệu yêu "Bờ cát dài phẳng lặng/Soi ánh nắng pha lê" thì Huy Cận lại thể hiện tình yêu, niềm tự hào của mình với biển cả quê hương qua hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trong thi phẩm cùng tên.

Hai khổ thơ đầu, tác giả viết về cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi:

Mặt trời xuống biển như hòn lửa,

Sóng đã cài then, đêm sập cửa.

Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,

Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,

Cá thu biển Đông như đoàn thoi

Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.

Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!

Thời điểm đoàn thuyền đánh cá ra khơi là lúc hoàng hôn buông xuống trên biển: “Mặt trời xuống biển như hòn lửa/Sóng đã cài then, đêm sập cửa”. Các hình ảnh so sánh, nhân hóa, ẩn dụ được nhà thơ sử dụng rất tài tình. Cách so sánh “như hòn lửa” gợi ra vẻ đẹp huy hoàng, mĩ lệ của mặt trời. Thiên nhiên trở nên có hồn, sinh động với những động tác “cài then”, “sập cửa”. Vũ trụ là một ngôi nhà rộng lớn, màn đêm là cánh cửa, những con sóng trập trùng là then cài. Khi thiên nhiên nghỉ ngơi lại là lúc con người bắt đầu công cuộc lao động hăng say. Khác với nhịp điệu êm đềm, du dương ở trên, hai câu thơ: “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi/Câu hát căng buồm cùng gió khơi” mang nhịp điệu liền mạch, thể hiện khí thế mạnh mẽ, sự nhiệt huyết của những người ngư dân. Chữ “lại” cho thấy tâm thế chủ động, sự quen thuộc của con người với công việc. Con người làm chủ tự nhiên, tràn đầy hứng khởi cất lên khúc hát tưng bừng. Dường như câu hát cũng chứa đựng sức mạnh phi thường, cùng với gió thổi căng cánh buồm, đẩy đoàn thuyền ra khơi. Ba sự vật và hiện tượng gồm cánh buồm, gió và câu hát kết hợp với nhau bằng biện pháp tu từ ẩn dụ khiến câu thơ trở nên vừa khỏe khoắn, chân thực lại vừa lãng mạn, hào hùng.

Tâm tư của người ngư dân được gửi gắm ở khổ thơ thứ hai. Trong lời hát của họ xuất hiện hình ảnh “cá bạc”, “cá thu như đoàn thoi” cho thấy tình yêu đối với công việc. Con tàu của họ dệt nên những câu chuyện của biển cả, mang sự hạnh phúc cho đời sống, lời ca của họ tỏa rạng “muôn luồng sáng” giữa màn đêm. Khơ thơ thể hiện trọn vẹn niềm vui tươi, sự say mê và phác họa nên cái giàu đẹp của biển cả quê hương.

Sang bốn khổ thơ tiếp theo, ta lắng nghe khúc hát đánh cá trên biển của đoàn thuyền. Chính sự tinh tế trong cảm xúc, óc quan sát tài tình đã giúp nhà thơ phát hiện những vẻ đẹp của cảnh đánh cá trên biển trong đêm trăng. Điểm nhìn của nhân vật trữ tình là điểm nhìn di động, được đặt trên con thuyền nên cảnh và người được miêu tả rất chân thực, hùng tráng và thơ mộng. Đầu tiên, đoàn thuyền lướt sóng để tìm luồng cá, bủa lưới vây giăng:

Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng,

Ra đậu dặm xa dò bụng biển,

Dàn đan thế trận lưới vây giăng.

Con thuyền tưởng như nhỏ bé giữa thiên nhiên bao la nay lại hiện lên kì vĩ, hào hùng, tràn đầy sức sống, mang tầm vóc vũ trụ. Con người và tự nhiên không đối chọi mà gắn bó, hòa quyện với nhau. Gió trời như vươn cánh tay chèo lái con thuyền khiến tầm vóc của chủ nhân của con thuyền - người đánh cá cũng trở nên sánh ngáng với trời đất. Ánh trăng đêm chiếu rọi trên cánh buồm tạo thành “buồm trăng” đầy thi vị. Con người nổi bật ở vị trí trung tâm của bức tranh, chinh phục cả đất trời, biển lớn. Những chi tiết “đậu dặm xa”, “dò bụng biển”, “đan thế trận” cho thấy những hoạt động cụ thể của đoàn thuyền đánh cá trong cuộc đấu gay cấn với thiên nhiên. Từ đó, đoạn thơ cho thấy sự hăng hái, lòng dũng cảm, niềm say mê với nghề nghiệp cùng trí tuệ tinh anh nơi những người ngư dân.

Khổ thơ thư tư mở ra trong mắt người đọc khung cảnh giàu đẹp của biển cả. Cái đẹp đẽ, trù phú của biển khơi đã tô điểm thêm bức tranh lao động:

Cá nhụ cá chim cùng cá đé,

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,

Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé.

Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.

Biện pháp liệt kê cho thấy sự phong phú của biển cả quê hương và tầm am hiểu sâu sắc của tác giả. Các loại cá vừa đa dạng, vừa quý hiếm lại rất đẹp. Nào cá nhụ, cá chim, cá dé rồi cá song. Hình ảnh ẩn dụ “Cá song lấp lánh đuốc đen hồng” đã tả thực hình dáng loài cá song, trên thân có những chấm nhỏ màu đen hồng nhưng cũng tạo nên sự lộng lẫy, kì vĩ cho cảnh vật, gợi hình ảnh cả đàn cá song như một cây đuốc lấp lánh giữa trời đêm. Nghệ thuật nhân hóa “Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé” với cách gọi “em” thân thương cho thấy tình yêu của tác giả dành cho biển cả và miêu tả hoạt động quẫy đuôi của một chú cá. Hình ảnh đẹp lung linh, huyền ảo như bước ra từ trang cổ tích. Đặc sắc nhất chính là câu thơ cuối: “Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.” Một lần nữa, Huy Cận lại thành công với biện pháp nhân hóa, truyền cho thiên nhiên hơi thở sống động. Tác giả tả nhịp điệu dập dìu của sóng mà gợi ra cả nhịp thở của vũ trụ. Biển mang một tâm hồn, sức sống riêng.

Khổ thơ thứ năm là cảnh gõ thuyền xua cá vào lưới:

Ta hát bài ca gọi cá vào,

Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.

Biển cho ta cá như lòng mẹ

Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.

Thiên nhiên cũng góp vui vào khúc nhạc của con người, cùng ngư dân gõ những nhịp phách rộn ràng cho công việc. Trăng in xuống nước, sóng đánh từng nhịp xô bóng trăng tạo cảm giác như gõ vào mạn thuyền. Cách so sánh “Biển cho ta cá như lòng mẹ” thể hiện niềm tự hào, trân trọng và biết ơn của người ngư dân với biển cả quê hương. Biển cả cung cấp cho con người biết bao điều quý giá, nuôi dưỡng con người “tự buổi nào” như một người mẹ ân tình. Mở rộng ra, tình yêu với biển cũng chính là tình yêu sâu nặng với quê hương đất nước.

Đến khổ thơ thứ sáu, thời gian lúc này là khi đêm tàn, những ngôi sao dần lui về nhường chỗ cho ánh sáng:

Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng

Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.

Vảy bạc đuôi vàng loé rạng đông,

Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.

Khung cảnh lao động như một bức tranh sơn mài rực rỡ. Chi tiết “kéo xoăn tay chùm cá nặng” làm nổi bật dáng vẻ gân guốc, cường tráng, khỏe khoắn đồng thời cho thấy đây là một mẻ cá bội thu. Các hình ảnh “vẩy bạc”, “đuôi vàng” gợi lên hình ảnh cá đầy ắp trong khoang thuyền, dấu hiệu của một cuộc sống đủ đầy, hạnh phúc. Công sức lao động của con người đã thu về những thành quả xứng đáng. Ánh nắng hồng rực rỡ tỏa rạng, chào đón con người trở về sau công cuộc chinh phục thiên nhiên vĩ đại.

Khổ thơ cuối chính là khúc ca khải hoàn tràn đầy khí thế:

Câu hát căng buồm với gió khơi,

Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.

Mặt trời đội biển nhô màu mới,

Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.

Câu đầu của khổ cuối và câu cuối của khổ đầu chỉ khác nhau ở chữ “cùng” và “với” gợi lên điệp khúc của cả bài. Tiếng hát của đoàn thuyền đánh cá ngân vang từ khi khởi hành tới khi trở về. Đoàn thuyền trở về trong tư thế chiến thắng, hào hùng, ngập tràn niềm vui phơi phới. Câu thơ thứu hai lại mọt lần nữa nhấn mạnh tầm vóc sánh ngang vũ trụ của con người. Hình ảnh “Mặt trời đội biển nhô màu mới” đem đến cảm giác tươi sáng, trong trẻo mà hết sức rực rỡ, mới mẻ của buổi bình minh. Đó còn là ẩn dụ cho tương lai tươi sáng của đất nước, niềm tin của con người vào cuộc sống mới. Lời thơ kết bài đẹp lung linh, không chỉ tả thực ánh rạng động huy hoàng phản chiếu trong muôn triệu mắt cá mà còn mở ra cái nhìn “muôn dặm” tràn đầy hân hoan.

Bài thơ có nhiều sáng tạo trong việc sử dụng thể thể bảy chữ, nhịp thơ linh hoạt ,giọng điệu hào hùng tươi vui, các hình ảnh thơ giàu sự liên tưởng độc đáo và các biện pháp nghệ thuật nhân hóa, so sánh, liệt kê, ẩn dụ, hoán dụ.

Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là khúc tráng ca ca ngợi tinh thần lao động tập thể hăng say và vẻ đẹp của con người trong khung cảnh kì vĩ của thiên nhiên, từ đó thể hiện tình yêu, lòng tự hào về đất nước, niềm tin vào tương lai.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
2
0
Phuonggg
03/04 19:36:12
+4đ tặng

Nhắc đến phong trào thơ mới trước Cách mạng tháng tám năm 1945, ta không thể nào không nhắc đến nhà thơ Huy Cận. Ông là một nhà thơ với tâm hồn tươi trẻ, dạt dào tình yêu thiên nhiên và lúc nào cũng nhìn thấy những sự sôi nổi, tươi vui từ trong những hình ảnh của đất nước, con người ở thời đại mới. Đoàn thuyền đánh cá chính là một bài thơ nói lên cái chất riêng trong thơ của ông. Bài thơ được sáng tác năm 1968, trong một chuyến đi thực tế của tác giả ở vùng biển Quảng Ninh. Đọc bài thơ, ta thấy được một bức tranh thiên nhiên tràn đầy sức sống, đây cũng là một khúc ca hùng tráng về đất nước, về con người.

Khác với cuộc sống của những người bình thường, khi họ đi làm vào ban ngày và trở về vào buổi tối thì những người ngư dân trên biển lại bắt đầu làm việc khi mọi người ai nấy đã trở về nhà:

"Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi"

Một hình ảnh thiên nhiên thật đẹp được tác giả gợi tả qua câu thơ đầu tiên của bài thơ. Đó là lúc hoàng hôn buông xuống, mặt trời đỏ rực như một quả cầu lửa đang chìm dần xuống đáy đại dương. Sóng khi ấy cũng đã cài then, để màn đêm buông xuống với cái cửa tối đóng sầm lại. Hình ảnh so sánh giàu tính nghệ thuật, gợi liên tưởng thật thú vị qua hai câu thơ đầu tiên. Chính trong hoàn cảnh vào ban đêm ấy, người ngư dân phải ra khơi, bắt đầu công việc của mình. Từ "lại" cho thấy đây không phải công việc bất chợt mà nó được lặp đi lặp lại, có tính thường nhật. Người ngư dân vốn đã quen với cái nghề "lênh đênh sóng nước" này rồi. Bắt đầu làm việc, họ cũng bắt đầu cất lên tiếng hát yêu đời, say mê: "Câu hát căng buồm cùng gió khơi". Người ngư dân cất lên những câu hát về cuộc sống trong suốt hành trình làm việc kéo dài từ đêm tới sáng của mình. Họ hát về những thứ:

"Hát rằng: Cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta, đàn cá ơi!

Trong câu hát của những người ngư dân, ta thấy được hình ảnh của các loài cá. Nào là cá bạc, cá thu.. là những sự hiện thân sáng rõ nhất của biển cả, của đại dương mênh mông. Hình ảnh so sánh "Cá thu biển Đông như đoàn thoi" cho thấy một tài nguyên biển vô cùng phong phú, giàu có ở vùng biển Quảng Ninh. Vô vàn những loài cá tươi ngon ấy, hãy đến dệt lưới cho người ngư dân ngay thôi nào! Câu hát thể hiện tinh thần lạc quan, yêu đời của người ngư dân trên biển. Dù vất vả, khó khăn nhưng không gì có thể khiến họ đầu hàng được.

Với câu hát yêu đời, người ngư dân có một đêm làm việc hăng say trên biển:

"Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận, lưới vây giăng"

Nhà thơ Huy Cận đã rất khéo léo khi sử dụng hình ảnh thơ đầy thi vị: "Thuyền ta lái gió với buồm trăng". Con thuyền được con người làm chủ tay lái, làm chủ tự nhiên "lái gió" và thiên nhiên "buồm trăng". Lái gió và chở cả trăng, chắc có lẽ ta không thể tìm được ở đâu một hình ảnh thơ độc đáo đến như vậy. Con thuyền tự do lướt giữa bầu trời và biển cả, cũng là một hình ảnh sáng tạo như ở câu thơ trên. Người ngư dân đang dàn thế trận, chờ đón kết quả của một buổi tối làm việc chăm chỉ.

Khổ thơ thứ tư càng làm rõ hơn tâm thế làm chủ thiên nhiên của con người:

"Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào"

Một lần nữa, câu hát của người ngư dân lại cất lên, nhưng đó không phải câu hát thúc đẩy, khích lệ nhau bắt đầu làm việc nữa mà có lẽ là câu hát yêu đời, tha thiết gọi đàn cá đến đây để kéo được một mẻ lưới tươi ngon. Lời hát cùng với tiếng sóng gõ vào mạn thuyền như bắt nhịp với nhau, vừa hát vừa có tiết tấu, gợi hình ảnh đầy lãng mãn của con người lao động. Họ làm việc tuy vất vả nhưng vẫn luôn tươi vui. Câu thơ thứ ba là hình ảnh so sánh "Biển cho ta cá như lòng mẹ". Biển được so sánh với "lòng mẹ", mà lòng mẹ thì bao la, rộng lớn biết bao, biển đem đến cho ta thức cá tươi ngon, là thành quả cũng như nguồn sống của người ngư dân. Không những thế, mẹ thiên nhiên còn nuôi dưỡng ta, từ thế hệ này đến thế hệ khác.

Sau cả một đêm làm việc vất vả, trời lúc này cũng đã sáng:

"Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng"

Trời đã sáng rồi, và thành quả của người ngư dân đang ở ngay trước mắt. Họ kéo được một mẻ cá đầy, đến mức "xoăn tay", và hiện lên trước mắt họ là những vảy cá lóe sáng lấp lánh dưới ánh nắng hồng. Có thể nói, nhà thơ đã không bỏ sót bất kì một hành động nào của người ngư dân. Những hành động rất đỗi quen thuộc hằng ngày của họ cũng có thể trở thành một hình ảnh thơ đầy tính nghệ thuật dưới con mắt của nhà thơ Huy Cận.

Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về được miêu tả thật đẹp ở khổ thơ cuối:

"Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm khơi."

Đây là lần thứ ba câu hát được lặp lại trong bài thơ. Câu hát lúc này như trở thành một điệp khúc, nó được cất lên mỗi khi đoàn thuyền đánh cá đang muốn truyền tải một điều gì đó. Ở trong lời thơ cuối này thì có lẽ nhà thơ muốn truyền tải đến người đọc tinh thần lạc quan, yêu đời, tự tin chạy đua cùng với thiên nhiên của người ngư dân. Đoàn thuyền đang chạy đua thật nhanh với biển cả, để trở về trước khi bình minh lên cho kịp đưa những mẻ cá tới tay người bán. Hai câu thơ cuối là hình ảnh thơ đẹp nhất trong bài:

"Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm khơi."

Mặt trời được nhân hóa đang "đội" cả biển lớn, mở ra một ngày mới tràn đầy sôi động, đầy sức sống. Câu thơ sau với hình ảnh "Mắt cá huy hoàng" cho thấy sự tươi ngon, mặn mà của hải sản - cái mà mẹ thiên nhiên đã trao tặng cho chúng ta. Có thể nói, toàn bộ bài thơ là một bức tranh lao động đầy nhiệt huyết, tươi vui của người ngư dân ở vùng biển Quảng Ninh. Bức tranh ấy mở ra trước mắt người đọc một cuộc sống mới của đất nước khi bắt đầu xây dựng lại nền kinh tế sản xuất.

Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của nhà thơ Huy Cận đã cho thấy một cảm hứng lãng mạn, một bức tranh thiên nhiên tràn đầy sức sống, mang âm hưởng hào hùng. Không chỉ vậy, nó còn làm hiện lên hình ảnh đẹp đẽ của người dân lao động và sự giàu có, phong phú của biển cả dành cho con người. Qua bài thơ, ta hiểu thêm về hồn thơ Huy Cận và tấm lòng của ông đối với quê hương, đất nước.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan
Bài tập Ngữ văn Lớp 9 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư