Đối với giáo dân, Minh Mạng khuyến khích sự tự nguyện bỏ đạo qua việc ông cố gắng thể hiện lòng bao dung trong các sắc dụ. Hầu như trong cuối mỗi đạo dụ có liên quan đến người Công giáo không theo giặc, ông thường dụ rằng: “Nghiêm cấm các võ biền, lại dịch và các tổng lý không được tự sự mà nộ nạt, hống hách, bắt càn nhiều dân”[4] hay đối với những người đã bỏ đạo: “Các người hàng xóm sở tại đều không được châm chọc chê bai và tạ sự doạ nạt. Nếu ai trái phép sẽ bị trị tội”[5].
Ngược lại với quan điểm trên, một số tác giả dường như ở một thái cực nhìn nhận khác là: Hậu quả của tình trạng “Công giáo bị sát hại” là do nguyên nhân từ các giáo sĩ phương Tây - những nhân vật có can dự và nội chính Việt Nam: Với quan điểm này, các nhà sử học thường quá nhấn mạnh mối liên hệ giữa chủ nghĩa thực dân và các nhà truyền giáo (điều mà các nhà sử học Công giáo rất ít khi nói tới).
Chẳng hạn có ý kiến rằng: “Có thể thấy chính sách của vua Minh Mạng đối với Công giáo về đại thể là có lý có tình và khó có thể chê trách nếu đặt nó vào bối cảnh nước ta lúc đó, khi hoạ xâm lăng đang tới gần... mặc dù biện pháp cưỡng chế bỏ đạo của Minh Mạng là đáng phê phán, song gọi Minh Mạng là “tên bạo chúa” là “kẻ khát máu” là “Néro của Việt Nam” là một sự xuyên tác sự thật lịch sử cần phải được đính chính.” [6]
Như vậy, dù ở quan điểm nào trong hai quan điểm trên đều có những mặt đúng và những hạn chế khi quá thiên về một nguyên nhân. Lịch sử dẫu là một dấu lặng buồn thì cũng đem cho ta những giá trị ít nhất là bài học kinh nghiệm. Và để “thấu tính đạt lý” trong cách lý giải về chính sách cấm đạo của triều Nguyễn, một số nhà sử học đã nhìn nhận vấn đề một cách đầy đủ, dưới nhiều góc độ như lịch sử, chính trị, văn hoá, xã hội có lẽ đây là cách đánh giá tìm được nhiều đồng thuận nhất cho đến hiên nay: