Bằng cách nhấp vào Đăng nhập, bạn đồng ý Chính sách bảo mật và Điều khoản sử dụng của chúng tôi. Nếu đây không phải máy tính của bạn, để đảm bảo an toàn, hãy sử dụng Cửa sổ riêng tư (Tab ẩn danh) để đăng nhập (New Private Window / New Incognito Window).
Để giải bài toán này, ta sẽ dựa trên quy luật phân bố của Menden và tỷ lệ kiểu hình của cây đậu Hà Lan ở thế hệ F₂. 1. Các kiểu hình có tỷ lệ mà Menden đã thu được ở F₂ là: - 81 hạt vàng, tròn (A_B_)
- 26 hạt vàng, nhăn (A_bb)
- 27 hạt xanh, tròn (aaB_)
- 9 hạt xanh, nhăn (aabb) Tỷ lệ tổng cộng ở F₂ là 81:26:27:9, cho thấy đây là một dạng phân tích di truyền của hai cặp gen (bố mẹ dị hợp tử).
2. Ta có tổng số kiểu hình là: 81 + 26 + 27 + 9 = 143. 3. Để tự thụ phấn cây hạt vàng, tròn (A_B_), ta cần xác định tỷ lệ kiểu gen của cây này. Khi bố mẹ phân dòng gen thì:
- A_B_ (kiểu gen dị hợp tử): Chiếm một tỷ lệ.
- A_bb: Chiếm một tỷ lệ.
- aaB_: Chiếm một tỷ lệ. Bằng cách kết hợp các tỷ lệ này:
- Kiểu gen dị hợp tử A_B_: chiếm tỷ lệ 2/9 (chiếm một phần của kết quả từ 81 hạt vàng, tròn).
- Kiểu gen A_bb: chiếm 1/9.
- Kiểu gen aaB_: chiếm 1/9. Tổng cộng tỷ lệ về dị hợp tử của gen A và gen B là:
Tỷ lệ A_B_=49
4. Hạt xanh, nhăn (aabb) là kiểu hình mà từ các cây vàng, tròn (A_B_) cần được xác định. Do đó, tỷ lệ hạt xanh, nhăn trong các thế hệ sau (khi tự thụ phấn các cây hạt vàng, tròn) sẽ là 1/9 trong trường hợp của kiểu gen F₂. 5. Tuy nhiên, để đưa ra tỷ lệ cuối cùng về kiểu hình này sau khi tự thụ phấn, ta kết hợp được như sau:
- Tỷ lệ kiểu hình hạt xanh, nhăn sẽ là:
4/9⋅1/9=4/81
**Kết luận: Tỷ lệ kiểu gen dị hợp về hai cặp gene và kiểu hình hạt xanh, nhăn ở thế hệ sau là 4/81.**
Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi
Vui | Buồn | Bình thường |