Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc Việt Nam là danh nhân văn hoá thế giới. Truyện Kiều
là một kiệt tác của thiên tài Nguyễn Du. Đoạn tríchCảnhngày xuân là một trong những đoạn trích
hay của Truyện Kiều, được trích ở phần một gặp gỡ và đính ước. Sau bức chân dung tài sắc của chị
em Thuý Kiều là bức hoạ về cảnh sắc mùa xuân trong tiết thanh minh và cảnh du xuân của trai tài
gái sắc. Đoạn thơ Cảnh ngày xuân có 18 câu từ câu 39 đến 56 của Truyện Kiều tiêu biểu cho bút
pháp nghệ thuật tả cảnh và tả tình của Nguyễn Du.
Mở đầu bài thơ tác giả miêu tả bức tranh mùa xuân :
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vàibông hoa”
Một không gian nghệ thuật hữu sắc hữu hương hữu tình nên thơ được mở ra. Giưa bầu trời
bao la mênh mông là những cánh én bay qua bay lại như đưa thoi cách nói mùa xuân thân mật biết
bao. Hai chữ đưa thoi rất gợi hình gợi cảm vút qua vút lai chao liệng để diễn tả thời gian trôi nhanh
mùa xuân đang trôi nhanh. Sau cánh én đưa thoi là ánh xuân “Thiều Quang” của mùa xuân chín
chục đã ngoài sáu mươi. Cách tính thời gian và miêu tả vẻ đẹp của mùa xuân của thi sỹ thật thú vị
mùa xuân đã bước sang thángba ánh sáng của mùa xuân hồng ấm áp. Rồi còn cả sắc xanh mơn
mởn ngọt ngào của cỏ nỏn trải dài trải rộng như thảm “đến tận trân trời”. Còn sắc trắng tinh khôi
thanh khiết của hoa lê. Chỉ bằng vài nét thôi cộng với sự pha trộn màu sắc tài tình cảnh mùa xuân
hiện ra thật đẹp nó có sự mới mẻ và sức sống đang trỗi dậy của màu xanh của cỏ non có sự tinh
khôi tươi đẹp của những bông hoa lê trắng và bức tranh thật sống động bởi động từ điểm
Tám câu thơ tiếp theo tả cảnh chảy hội mùa xuân:
“Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nêm
Ngổn ngang gòđống kéo lên
Ngựa xe như nước áo quần như nêm”
Lễ tảo mộ đi viếng, sửa sang phần mộ người thân, hội đạp thanh(dẫm lên cỏ xanh) đi chơi
xuânở chốn đồng quê. Điệp từ “lễ là…hội là”gợi nên cảnh lễ hội dân gian cứ liên tiếp diễn ra bao
đời nay. Cảnhtrảyhội đông vui tưng bừng náo nhiệt. Trên các nẻo đường gần xa, những dòng
người cuồn cuộntrảy hội. Có biết bao yến anhtrảyhội(hìnhảnh ẩn dụ chỉ các nam thanh nữ tú).
Trong niềm vui nô nức hồ hởigiục giã. Có biết bao tài tử giai nhân dập dìu sánh vai, chân nối chân
nhịp bước. Dòng ngườitrảy hội tấp lập ngựa xe cuồn cuộn như nước áo quần đẹp đẽ tươi thắm sắc
màu nghìn nghịt đông vui trên các nẻo đường như nêm các từ ngữ “nô nức, dập dìu”, các hìnhảnh
so sánh “như nước như nêm”đã gợi tả mùa xuân tưng bừng náo nhiệt khắp mọi miền quê. Trẻ trung
xinh đẹp, sang trọng phong lưu trong đám tài tử giai nhân là ba chị em Kiều đang náo nức chuẩn bị
du xuân, các từ ghép “yến anh, chị em, tài tử giai nhân, ngựa xe,áo quần” (danh từ), “gần xa, nô
nức sắm sửa,dập dìu” (động từ, tính từ) được thi hào Nguyễn Du sử dụng làm sống lại không khí
mùa xuân, một nét đẹp của nền văn hoá lâu đời của phươngĐông và nếp sống của chị em Thuý
Kiều.
“Ngổn ngang gò đống kéo lên
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay”
Đời sống tâm tình phong tục dân gian cổ truyền trong lễ tảo mộ được Nguyễn Du nối đến
với những cảm thông chia sẻ trước những ngôi mộ người ta rắc vàng thoi bạc giấy bày cỗ thắp nến
đốt nhang khấn vái để tưởng nhớ những người thân đã mất tạo ra một không gian giao hoà trong cõi
tâm linh mỗi con người.
Sáu câu thơ cuối ghi lại cảnh chị em Thuý Kiều đi tảo mộ đang bước dần trở về. Mặt trời đã
tà tà gác núi. Ngày hội ngày vui đã trôi qua nhanh:
“Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dang tay ra về”
Hội tan ngày tàn sao chẳng buồn. Nhịp thơ chậm rãi, nhịp sống như ngừng trôi. Tâm tình
“thơ thẩn” cử chỉ “dan tay” nhịp chân “bước dần” một cái nhìn man mác bâng khuâng “lần xem”.
Đối với mọi cảnh vật tất cả đều nhỏ bé khe suối chỉ là ngọn tiểu khê, phong cảnh thanh dòng nước
lao lao uốn quanh dịp cầu nho nhỏ uốn quanh cối gềnh. Cả một không gianêm đềm vắng lặng tâm
tình chị em Kiều như dịu lại trong bóng tà dương như đang đợi chờ một cái gì sẽ đến sẽ nhìn thấy,
nên cặp mắt cứ lần xem gần xa. Các từ láy tượng hình “thanh thanh nao nao nho nhỏ”gợi lên sự
nhạt nhoà của cảnh vật và sự dung động của tâm hồn giai nhân khi hội tan nỗi buồn man mác bâng
khuâng thấm sâu nan toả trong tâm hồn của giai nhân đa tình đa cảm.
Bằng nghệ thuật miêu tả thiên nhiên theo trình tự thời gian không gian kết hợp tả với gợi tả
cảnh thể hiện tâm trạng. Từ ngữ giàu chất tạo hình sáng tạo nghệ thuật đối lập sử dụng từ ghép từ
láy. Đoạn thơ là bức tranh thiên nhiên mùa xuân đẹp đẽ khoáng đạt tinh khôi thanh khiết mới mẻ và
đầy sức sống cảnh lễ hội mùa xuân tưng bừng náo nhiệt và tâm trạng xốn sang náo nức của chị em
Thuý Kiều khi đi hội, tâm trạng buồn lưu luyến bâng khuâng khi trở về. Qua đây ta thấy Nguyễn
Du là người yêu thiên nhiên, hiểu lòng người, có tài khi miêu tả. Đoạn thơ đem đến cho chúng ta
cảm nhận được không khí mùa xuân giúp ta thêm yêu thiên nhiên quê hương đất nước.