Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phân tích tác phẩm Người lái đò Sông Đà

Phân tích tác phẩm Người lái đò Sông Đà
2 trả lời
Hỏi chi tiết
23
Tham khảo câu trả lời từ Trợ lý ảo Lazi
Tác phẩm "Người lái đò Sông Đà" của tác giả Nguyễn Tuân là một trong những tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại, thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa cái hùng vĩ của thiên nhiên và tâm hồn con người. Dưới đây là một số phân tích về tác phẩm này:

### 1. Nội dung và bối cảnh
"Người lái đò Sông Đà" là một tác phẩm mang đậm màu sắc dân gian, thể hiện hình ảnh người lái đò - một hình tượng gắn bó với dòng sông Đà hùng vĩ. Tác phẩm được viết trong bối cảnh thời kỳ kháng chiến chống Pháp, khi mà con người và thiên nhiên hòa quyện với nhau tạo thành sức mạnh chống lại kẻ thù.

### 2. Hình tượng người lái đò
Người lái đò trong tác phẩm không chỉ đơn thuần là một người điều khiển chiếc đò trên dòng sông Đà mà còn là tượng trưng cho sức mạnh, trí tuệ, và sự khéo léo của con người. Ông là người am hiểu và yêu thiên nhiên, biết cách đối mặt với những thử thách, gian nan của dòng sông. Hình ảnh của ông gợi lên sự kiên cường, dũng cảm và tài năng của con người trong cuộc sống.

### 3. Miêu tả thiên nhiên
Nguyễn Tuân đã khắc họa một bức tranh thiên nhiên vừa hùng vĩ vừa hiểm trở của sông Đà. Dòng sông được miêu tả với nhiều hình ảnh sinh động như "sóng xô", "thác ghềnh", "trời mây". Qua đó, tác giả đã thể hiện được sự hùng vĩ, sử thi của sông Đà và quan trọng hơn là tâm hồn ngời sáng của người lái đò khi đối diện với thiên nhiên đầy thử thách ấy.

### 4. Nét độc đáo trong văn phong
Nguyễn Tuân sở hữu một phong cách viết phong phú, tinh tế và giàu biểu cảm. Ông sử dụng nhiều biện pháp tu từ như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ để làm nổi bật vẻ đẹp của con người và thiên nhiên. Ngôn ngữ trong tác phẩm vừa mang tính triết lý vừa thường nhật, tạo nên sự gần gũi cho người đọc.

### 5. Ý nghĩa và bài học
Tác phẩm mang đến nhiều giá trị tư tưởng và nghệ thuật. Nó không chỉ thể hiện tình yêu thiên nhiên, con người mà còn phản ánh tư tưởng nhân văn sâu sắc và tinh thần vượt khó mà Nguyễn Tuân muốn gửi gắm. Qua hình ảnh người lái đò, độc giả cảm nhận được sức mạnh của con người trước khó khăn, thử thách trong cuộc sống.

### Kết luận
"Người lái đò Sông Đà" là một tác phẩm đẹp và sâu sắc, phản ánh vẻ đẹp của thiên nhiên và phẩm chất con người Việt Nam. Qua đó, tác giả không chỉ tôn vinh hình ảnh người lao động mà còn gửi gắm thông điệp về tình yêu quê hương, đất nước và sự kiên cường trong cuộc sống. Tác phẩm xứng đáng là một trong những viên ngọc quý của văn học Việt Nam.
1
0
Phuong
11/09 11:41:52
+5đ tặng

Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông là cây bút uyên bác, tài hoa, không quản nhọc nhằn để cố gắng khai thác cảm giác và liên tưởng phong phú, bộn bề nhằm tìm ra những nghĩa xác đáng nhất. Người lái đò sông Đà là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám. Trong bài tùy bút này, Nguyễn Tuân ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên con người Tây Bắc. Đến với “Người lái đò sông Đà”, người đọc sẽ được chiêm ngưỡng những vẻ đẹp khác nhau của hình tượng sông Đà.

Sông đà là một hình ảnh trung tâm của tác phẩm được tác giả xây dựng rất thành công. Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân sông Đà không chỉ tiêu biểu cho thiên nhiên Tây Bắc mà còn trở thành một sinh thể có tâm hồn có tính cách. Đó là một dòng sông rất hung bạo dữ dội và thơ mộng trữ tình. Không để cho người đọc phải chờ đợi lâu, ngay trong lời đề từ của tác phẩm Nguyễn Tuân đã tạo dấu ấn trong lòng người đọc về sự lạ thường của con sông đà. Nhà văn đã mượn câu thơ của Nguyễn Quang Bích để giới thiệu:

“Chúng thủy giai đông tẩu
Đà giang độc bắc lưu”

Việc sử dụng những câu thơ chữ Hán đã tăng thêm tính trang trọng, cổ kính cho hình tượng sông Đà. Từ “độc” trong lời thơ được sử dụng vô cùng hiệu quả thể hiện sự độc nhất, không lặp lại, sự khác biệt khác thường của sông Đà. Sau lời đề từ, Nguyễn Tuân đã tỉ mỉ liệt kê tên của 73 con thác của sông Đà, nhưng sự hùng vĩ của nó không chỉ có thác mà còn ở vách đá. Bờ sông Đà không trôi giữa hai bờ cát trắng phẳng lì thơ mộng trữ tình như Sông Đuống của Hoàng Cầm mà chảy sữa hai vách đá dựng đứng hun hút. Từ điểm nhìn bao quát, Nguyễn Tuân đã giúp người đọc hình dung về sự hiểm trở của sông Đà. Cảnh quan bờ sông “dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy đứng ngọ mới thấy mặt trời”. Những từ ngữ chính xác và chi tiết cụ thể đã giúp người đọc hình dung về sự hiểm trở của vách đá đó.

Không chỉ vậy, bằng cách sử dụng nghệ thuật so sánh tài tình “cách đá thành chét lòng sông Đà như một cái yết hầu”, cùng sự liên tưởng độc đáo vừa chính xác kinh tế vừa bất ngờ lạ lùng “ngồi trong quãng đó…” lấy phố phường để ví von với sông nước, hai sự vật vốn không có điểm tương đồng nay lại có thể dùng để liên tưởng với nhau. Cách liên tưởng ấy đã truyền cho người đọc một cảm giác ớn lạnh rùng mình rất chân thực, có thể làm kinh động hồn trí người đọc khi nghĩ đến quãng sông ấy.

Con sông Đà không chỉ có những vách đá dựng đứng mà ở quãng Hát Loong còn: “dài hàng dài cây số nước và đá, nước xô đá, đá xô sóng, sóng lại xô gió” như một vòng tuần hoàn. Nguyễn Tuân tập trung miêu tả cảnh mặt ghềnh Hát Loóng để khắc họa sự hung bạo ở diện mạo của con sông. Tác giả nhắc đến địa danh Hát Loóng nhằm gợi sự xa xôi hoang sơ nguy hiểm. Thêm vào đó sự kết hợp nghệ thuật liệt kê “nước, đá, sóng, gió” cùng điệp từ “xô” đã gợi ra những hoạt động liên tiếp nối nhau cùng va đập, xô đẩy, gào thét tạo âm thanh kinh hãi vang động kéo dài cả hàng cây số. Từ láy “cuồn cuộn” cùng thủ pháp so sánh, nhân hóa “như đòi nợ xuýt”, “gùn ghè” vừa nhấn mạnh dòng chảy cuộn xiết, dữ dội cùng tiếng gió rít rùng rợn, quăng quật, gào rú thách thức con người vừa hé mở hành động tâm địa nham hiểm độc ác của con sông. Từ đó nhà văn làm nổi bật sự hung hãn lì lợm cuồng bạo của Đà Giang ngày đêm hăm dọa uy hiếp con người.

Đến quãng Tà Mường, ta lại bắt gặp “trên sông có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu…”. Từ “bỗng” gợi cảm giác bất ngờ, hoang mang trước sự xuất hiện đột ngột của hút nước. Nghệ thuật so sánh “như cái giếng bê tông” đã vẽ ra hình dáng to lớn, đen ngòm, sâu hoắm, tối tăm, hình dung như miệng của con thủy quái khổng lồ đang chực nuốt mọi thứ đi qua nó. Tất cả đã cụ thể tiếng kêu ghê sợ, rùng rợn, hoang dã, đủ thấy sự bạo liệt hiểm độc của xoáy nước Đà Giang. Không chỉ vậy, nhà văn còn tô đậm sức mạnh khủng khiếp ghê gớm của hút nước sông Đà “những bè gỗ lớn nghênh ngang bị lôi tuột xuống đáy, rồi bị hút xuống khiến nó trồng cây chuối ngược vụt biến đi và tan xác ở khuỷnh sông dưới”, nó gây nguy hiểm cho tất cả thuyền bè đi qua quãng ấy. Như vậy Nguyễn Tuân đã khắc sâu sự dữ dội nguy hiểm cũng như cảm giác rùng mình nghẹt thở hãi hùng trước sức mạnh của những xoáy nước trên sông.

Không chỉ dừng lại ở những hình ảnh vách đá dựng đứng, những cái hút nước sâu hút hay hơi thở ừng ực của dòng nước cuồn cuộn, con sông Đà còn phối hợp hài hòa với âm thanh réo rắt của những thác nước. Tưởng chừng như tác giả là một nhạc trưởng đang chìm đắm điều khiển dàn nhạc giao hưởng hùng tráng của sông Đà với bài ca của sóng hòa với gió xô nước lên những vách đá. “Còn xa lắm mới đến cái thác dưới, nhưng đã thấy tiếng nước réo gần... cùng gầm thét với đàn trâu ra cháy bùng bùng”. Như thế sông Đà phô trương thanh thế hù dọa con người ngay cả khi nó chưa xuất hiện. Khi giáp mặt, âm thanh gào thét rùng rợn của thác nước lại khiến con người choáng váng. Bằng những liên tưởng độc đáo. nhà văn đem đến ấn tượng mạnh mẽ về một sông Đà hung bạo khủng khiếp nhằm uy hiếp đến mức mất tinh thần hồn siêu phách lạc với những người lái đò non kinh nghiệm yếu tay lái.

Con sông Đà hiện lên dữ dằn, hung bạo, tàn ác không khác gì “kẻ thù số một của con người”. Nhưng cũng chính từ hình ảnh con sông ấy lại là kẻ tôn vinh tài năng nghệ thuật tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân- ngòi bút số một về thể loại tùy bút Việt Nam. Nhưng con sông Đà hiện lên không chỉ trông hung bạo, dữ tợn như vậy mà đôi khi nó cũng có vẻ đẹp dịu dàng, thơ mộng trữ tình. Dòng sông Đà không chỉ có những “dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế manh trên sông đá” mà nó còn là bức tranh thủy mặc vương vấn lòng người.

Với góc nhìn từ trên tàu bay nhìn xuống “Mùa nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt … ”. Tác giả sử dụng từ láy “ngoằn ngoèo” kết hợp với phép so sánh “như cái dây thừng” gợi đường nét uốn lượn quanh co gấp khúc khi sông Đà chảy giữa núi đồi Tây Bắc. Cách so sánh liên tưởng giản dị khiến sông Đà thật gần gũi, trong phút chốc người đọc quên đi ấn tượng về một dòng sông hung hãn nguy hiểm, luôn tìm cách để mưu hại con người. Từ trên cao nhìn xuống sông Đà xinh đẹp như một người con gái kiều diễm với hình ảnh “thuôn dài thuôn dài như một áng tóc trữ tình”. Bằng sự quan sát đầy tinh tế, Nguyễn Tuân nhận ra mùa xuân nước sông có “màu xanh ngọc bích”, đến mùa thu nước sông Đà: “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu”, với cái nhìn đầy mê đắm Nguyễn Tuân nhận ra vẻ đẹp bí ẩn sống động ở diện mạo khiến sông đà như cô gái đẹp nhưng đỏng đảnh thất thường đầy cá tính.

Từ trong rừng nhìn ra, con sông đà gợi cảm như một cố nhân : “bờ sông Đà, bãi sông Đà, …, nó đằm đằm, ấm áp như gặp lại cố nhân”. Bằng thị giác nhà văn đã phát hiện vẻ đẹp quyến rũ cuốn hút riêng mà thiên nhiên sông Đà mang lại. Từ “cố nhân” khắc sâu bề dày kỷ niệm với sông Đà cũng như tình cảm gắn bó sâu nặng của Nguyễn Tuân dành cho dòng sông này. Với tác giả, vẻ đẹp gợi cảm của Sông Đà được khắc sâu qua chính cảm xúc của ông trong ngày tái ngộ. Bằng sự gợi cảm của mình, sông đà đã thực sự trở thành một cố nhân, một tình nhân dẫu trái tính vẫn hấp dẫn mê hoặc lòng người.

Cuối cùng Nguyễn Tuân tập trung miêu tả vẻ đẹp hoang sơ trù phú của đôi bờ khi ông đi thuyền trên sông Đà: “Cảnh ven sông ở đây lặng từ… Và con sông như đang trôi những con đò đuôi én thắp mình dây cổ điển”. Thi vị nhất là không gian tĩnh lặng trên dòng sông Đà, tác giả liên tưởng đến dòng sông chảy xa xăm trong lịch sử “đời Lý, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”, vừa làm nổi bật sự cổ kính tĩnh lặng của không gian vừa gợi cái thăm thẳm xa xăm của thời gian. Không chỉ vậy, cảnh bờ sông tiếp tục được miêu tả qua những so sánh độc đáo “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử…”, sự liên tưởng mới lạ của ông đã tô đậm vẻ đẹp cổ kính hoang sơ mà vẫn trong trẻo êm đềm tĩnh lặng của dòng sông đã có từ rất xa xưa. Ẩn sau vẻ đẹp bình yên tĩnh mịch sông Đà còn mang vẻ đẹp hữu hình trù phú, được nhà văn phát hiện qua các hình ảnh “cỏ danh đang ra những nõn mút, búp cỏ danh đẫm sương đêm, mấy lá ngô non đầu mùa, áng cỏ sương”. Tất cả đã làm nổi bật khung cảnh yên bình thơ mộng sự sống tràn trề đã tạo nên diện mạo mới cho sông Đà nơi hạ lưu. Trong cảm nhận của Nguyễn Tuân sông Đà còn rất nặng tình nặng nghĩa.

Vẻ đẹp của sông Đà được khắc họa thành công bởi tác giả đã vận dụng linh hoạt các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, sử dụng ngôn ngữ có giá trị tạo hình cao, dùng nhiều câu liên tưởng độc đáo bất ngờ, câu văn đa dạng giàu nhịp điệu. Qua góc nhìn tài hoa của Nguyễn Tuân, sông Đà vô tri vô giác đã trở thành người tình nhân chưa quen biết đang chia tay với thượng nguồn để về với mảnh đất mới con người mới. Qua đó ông bày tỏ niềm ngưỡng mộ tự hào cũng như tình yêu tha thiết quê hương đất nước.

Với phong cách nghệ thuật tài hoa uyên bác của mình Nguyễn Tuân đã làm nổi bật vẻ đẹp hung bạo, hùng vĩ và thơ mộng trữ tình của thiên nhiên Tây Bắc. Từ đó khơi dậy trong mỗi chúng ta tình yêu và niềm tự hào về thiên nhiên đất nước trong công cuộc xây dựng tổ quốc.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
whynothnguyen
11/09 12:15:12
+4đ tặng

Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn học hiện đại Việt Nam. Trước năm 1945, ông ghi đậm dấu ấn trong lòng đọc giả với tập "Vang bóng một thời" và sau khi Cách mạng tháng Tám thành công ông vẫn có những tác phẩm mới mang những nét sáng tạo của chính mình. Nguyễn Tuân là một nhà văn yêu cái đẹp, ông luôn khám phá ra mọi góc cạnh của vẻ đẹp trên thế giới này. Con người và cảnh vật thiên nhiên khi vào văn chương của ông như hoá thành những công trình nghệ thuật độc đáo mà kì vĩ.

Tác phẩm "Người lái đò sông Đà" được rút ra từ tập tuỳ bút Sông Đà được ông sáng tác vào năm 1960. Tác phẩm này là kết quả của một chuyến đi đầy gian nan mà vô cùng hứng khởi của nhà văn về miền Tây Bắc đầy hiểm trở. Trong đoạn trích, hình ảnh con sông Đà hiện lên quanh co, uốn lượn dọc những triền núi. Sông Đà có những dòng nước chảy xiết cùng độ dốc lớn. Chính cái nét khác biệt ấy đã tạo nên cho nó một vả đẹp hoang sơ mà hùng vĩ. Bởi cái sự hung bạo nhưng trữ tình ấy, sông Đà lại làm bật lên vẻ đẹp tài hoa của người lái đò trên sông.

Ngay từ những câu mở đầu, nhà văn đã dẫn dắt độc giả cuốn theo cảm giác sợ hãi nhưng đê mê, vui thú với bức tranh một con sông Đà hung dữ, bạo tợn hiện lên. Điều ấy đã hiện rõ ngay trong những dòng miêu tả đầu tiên như "đá bờ sông dựng vách thành". Nhà văn đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ để miêu tả những vách đá nơi bờ sông ấy giống như những thành trì vững trãi, kiên cố, ẩn giấu trong đó biết bao nhiêu bí mật và sự nguy hiểm. Càng đọc, càng đắm chìm vào những dòng văn của ông thì độc giả lại càng ảm thấy thích thú với những cách ví von và dùng từ miêu tả về dòng sông Đà. Nhà văn đã dùng ngôn từ để vẽ ra con sông ấy, mặt sông thường "đúng ngọ" mới có mặt trời. Và khi đó thì các vách đá như "chẹt lòng sông như một cái yết hầu", rồi "có quãng tưởng như cn hươu, con nai nhảy từ bờ này qua bờ kia". Tác giả đã thể hiện những liên của mình tưởng chừng như vô ý, tưởng chừng như ngẫu nhiên hiện ra thế nhưng nó lại rất hợp lý, đấy là cái tài tình của ông. Ví như động từ "chẹt", nó giống như từ dùng trong ngôn ngữ văn nói thế nhưng khi đặt với hình ảnh "như một cái yết hầu" thì lại vô cùng ăn khớp và không có từ nào có thể thay thế được. Vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội của dòng Đà giang còn được thể hiện ở cái cảm giác thấy lạnh của nhà văn khi đi qua vào mùa hè. Cái cảm giác ấy vừa cho thấy không khí nơi đây, vừa tạo ra một khung cảnh đầy tráng lệ, hùng vĩ với các vách đá dựng đứng khiến con người cảm thấy nhỏ bé giữa thiên nhiên bao la.

Chính cái sự hung bạo của dòng sông Đà ấy đã làm nền để tôn vinh lên vẻ đẹp trữ tình và hình tượng của người lái đò. Cảnh hung bạo của dòng sông được khắc hoạ đậm nét ở mặt ghềnh Hát Lóong. Ông đã miêu tả dòng sông phải có đến hàng ngàn cây số là "nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió". Chỉ một câu nhưng từ "xô" được lặp lại tới ba lần và một loạt từ với thanh sắc, điều này khiến độc giả cảm thấy cảm giác như sóng, gió và nước đang tạt thẳng vào người, mỗi lúc một cao, một mạnh và liên hồi hơn. Qua đây, chúng ta cảm nhận được rõ hơn bao giờ hết cái sức mạnh của thiên nhiên sao mà khủng khiếp, lạnh lùng đến vậy. Nó "gùn ghè", hầm hè y như những con thú hoang bạo tợn, đầy hung dữ. Nó đang giơ nanh vuốt như sẵn sàng thách thức với con người.

Vẻ đẹp hung bạo ấy còn được thể hiện ở nhưng cái "hút nước" khổng lồ ở quãng sông Tà Mường Vát. Dưới lăng kính của nhà văn Nguyễn Tuân, xoáy nước giống "như những cái giếng bê tông" được thả xuống làm móng cầu. Ở đây, ông dùng biện pháp nhân hoá, biến cái xoáy nước ấy  thành con người biết thở và biết kêu. Sự ví von như một cái cống bị sặc thật sinh động, hấp dẫn. Hình như chưa có một nhà văn nào lại có thể tưởng tượng và so sánh những hình tượng này với nhau một cách độc đáo như Nguyễn Tuân đã làm. Có thể nói nhờ ông mà dù nhiều người chưa từng được tận mắt nhìn thấy con sông Đà nhưng vẫn cảm nhận được ở khúc sông đó hiểm nguy đến nhường nào. Nó có thể nuốt chửng mọi thứ nên không có một con thuyền nào dám tới gần nếu như không muốn bị hút và dìm xuống dòng sông.

Đặc biệt ở nơi khúc thác sông Đà, cái vẻ dữ dội, đày hiểm ác ấy đã được tác giả vạch trần một cách rõ nét. Ông đã miêu tả bằng những âm thanh vô cùng mạnh mẽ, quyết liệt như tiếng "réo gần mãi lên, réo to mãi lên". Ông nghe tiếng nước như có lúc đang "oán trách", có khi lại "van xin" hay lại đầy "khiêu khích". Có lúc nó lại rống lên như "một ngàn con trâu mộng" đang vật lộn trong lúc rừng cháy. Không những vậy, đá trên sông Đà như hợp lại thành "chân trời đá" mênh mông. Chúng mang nhiều dáng vẻ khác nhau như "ngỗ nghịh", "nhăn nhúm", "méo mó"... Tác giả đã dùng nhiều tính từ tả người để miêu tả khiến cho những hòn đá vô tri ấy trở nên có tâm hồn. Bởi thế mà độc giả cũng cảm nhận được sự bướng bỉnh, bất cần của đá. Đến đây chúng ta thấy được bằng trí tưởng tượng phong phú của mình thì tác giả đã biến sông Đà thành một "loài thuỷ quái khổng lồ" đầy độc ác, nguy hiểm.

Dòng sông Đà ấy không chỉ mang cái đẹp hùng vĩ, hung bạo và dữ dội mà nó còn mang trong mình vẻ đẹp trữ tình thơ mộng đầy dịu dàng, e ấp. Nét đẹp thuỳ mị như thiếu nữ mới lớn ấy được Nguyễn Tuân cảm nhận từ nhiều góc cạnh, điểm nhìn ở những không gian và thời gian khác nhau. Với ông, dòng sông Đà từ trên cao nhìn xuống uốn lượn như áng tóc mây của người con gái vùng Tây Bắc xinh đẹp, kiều diễm "tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân". Khi miêu tả, ông cũng không quên miêu tả chi tiết màu nước thay đổi theo từng mùa của dòng sông như mùa xuân dòng sông "xanh ngọc bích", mùa thu "lừ lừ chín đỏ". Không những thế trong trí tưởng của ông thì có lúc sông Đà nhẹ nhàng "như một cố nhâ". Ông còn thấy được dòng sông mang "màu nắng tháng ba Đường thi" với bờ sông đầy những chuồn chuồn và bươm bướm bay lượn. Tác giả đã không quên mô tả hai bên bờ sông như nhuộm màu cổ tích, miêu tả từ xa tới gần, từ khái quát đến chi tiết. Cả dòng Đà giang giờ đây còn mang trong mình những nỗi niềm hoài niệm xưa cũ.

Bên cạnh hình ảnh con sông Đà là hình ảnh nhân vật người lái đò. Nếu như thiên nhiên càng dữ dội bao nhiêu, càng bao la thì lại càng tôn lên vẻ đẹp tài hoa, đức độ và trí tuệ của người lái đò. Người lái đò ấy là đại diện cho những con người lao động chăm chỉ, cần cù, kiên trì mạnh mẽ và can đảm. Phẩm chất tốt đẹp của người lái đò ấy đã được khắc hoạ một cách rõ nét thông qua khung cảnh vượt thác sông Đà. Trước cái dòng sông đầy nguy hiểm ấy, người lái đò phải giữ sự tỉnh táo và vững tâm mới có thể vượt qua được ma trận với những vòng thách đấu với dòng sông. Trước cái "thạch trận" ấy, ông lái đò vẫn chẳng hề có sự nao núng. Ông vẫn "giữ lấy mái chèo cho khỏi bị hất lên". Mặc dù mặt nước có hò reo, hùa nhau để bẻ gãy cán thuyền còn sóng nước thì như những "quân liều mạng" lao vào "đá trái thúc gối vào bụng và hông thuyền". Mặc dù nước bám lấy như "đô vật" muốn vật ngửa ông ra, còn sóng thì như bóp chặt lấy hạ bộ ông đò. Và rồi dù có bị thương đến mức "mặt méo bệch đi" thì ông vẫn cương quyết không đầu hàng. Ông "cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt buồng lái" và chỉ huy chiếc thuyền băng băng vượt qua mọi "trùng vi thạch trận".

Qua truyện ngắn "Người lái đò sông Đà" tác giả đã xây dựng hình tượng của nhân vật người lái đò bằng nhiều nghệ thuật đặc sắc ở nhiều lĩnh vực như binh pháp, âm nhạc, võ thuật, thể thao... Đồng thời bằng các biện pháp tu từ nhân hoá, so sánh, cùng câu văn ngắn gọn, súc tích đã khắc hoạ thành công nhân vật lái đò và dòng sông huyền thoại. "Người lái đò sông Đà" thực sự là một tác phẩm vô giá. Nó đã thôi thúc mọi độc giả sau khi đọc xong đều muốn xách ba lô lên và đi tới thám hiểm vùng Tây Bắc, để được thu trọn vào tầm mắt cái vẻ đẹp hùng vĩ, đầy bạo tàn nhưng lại trữ tình của dòng sông này. Đồng thời, chúng ta có thể cảm nhận được ông lái đò để thêm yêu, thêm hiểu những con người gan dạ nơi đây. 

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo