Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Hãy hình dung và vẽ hoặc miêu tả bằng lời hình ảnh “trang nam nhi” với “hào khí Đông A” (hào khí thời Trần) trong bài thơ Tỏ lòng? (10 mẫu)

Hãy hình dung và vẽ hoặc miêu tả bằng lời hình ảnh “trang nam nhi” với “hào khí Đông A” (hào khí thời Trần) trong bài thơ Tỏ lòng? (10 mẫu)

1 Xem trả lời
Hỏi chi tiết
21
0
0

Dàn ý

I. Mở bài: 

- Giới thiệu tác giả tác phẩm.

   VD: Văn học là tấm gương phản ánh cuộc sống. Hiện thực cuộc sống là chất liệu thô sơ mà nhà văn làm mềm mại trên trang sách. “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão là trang thơ mang đậm tinh thần của thời đại mà nó ra đời như thế, thời đại quân dân nhà Trần kháng chiến chống quân Mông Nguyên, dội vang âm hưởng của hào khí Đông A.

II. Thân bài

1. Hào khí Đông A

+  Đông A là triết tự của chữ Trần trong tiếng hán, gồm bộ A và chữ Đông.

- Hào khí Đông A là khí thế chiến đấu hào hùng của một thời đại vàng son lịch sử, là thời kì bùng lên sức mạnh dân tộc tự lập tự cường, ý chí quyết thắng của quân và dân.

- Hào khí Đông A là sản phẩm của thời đại hào hùng của đất nước, là kết tinh sức mạnh toàn dân, là ngọn lửa vút cao ý chí dân tộc.

- Âm vang của hào khí Đông A có lẽ cũng là một nguồn cảm hứng cho sáng tác “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão.

2. Hào khí Đông A trong bài thơ “Thuật hoài”

a. Hào khí Đông A thể hiện ở sự ngợi ca vẻ đẹp sức mạnh con người thời đại nhà Trần

+ "Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu"

Hai chữ “hoành sóc” làm hiện lên bức chân dung sừng sững của người lính sẵn sàng chiến đấu bảo vệ tổ quốc.

+ “Giang sơn”: gợi không gian rộng lớn.

+ “Kháp kỉ thu”: thời gian dài dằng dặc.

- Vẻ đẹp của tư thế được đặt trong không gian rộng lớn giữa dòng thời gian vô tận, hình ảnh thơ mang tính ước lệ đã tô đậm tầm vóc lớn lao, kì vĩ của người tráng sĩ. Thời gian đã nhấn mạnh vào sự bền bỉ, tinh thần luôn sẵn sàng của người lính.

- Người tráng sĩ có tầm vóc sánh ngang với vũ trụ, khí thế như bao trùm trời đất.

- Thể hiện cảm xúc ngưỡng mộ, tự hào của nhà thơ.

+ "Tam quân tì hổ khí thôn ngưu"

- Vẻ đẹp cá nhân đã phát triển thành vẻ đẹp cộng đồng.

- “Tam quân”: cách nói ước lệ, chỉ toàn thể quân đội nhà Trần.

- “Tì hổ”: so sánh ngầm quân nhà Trần có sức mạnh dũng mãnh như loài hổ báo.

- “Khi thôn ngưu”: khí thế trận đấu tiêu diệt giặc của quân đội nhà Trần. Đó có thể hiểu là khí thế của những con người trẻ tuổi có khí phách anh hùng, cũng có thể hiểu là khí thế ra trận dũng mãnh làm mờ cả sao Ngưu.

=> Cả hai cách hiểu trên đều làm bật lên sức mạnh kì vĩ, khí thế chiến đấu hào hùng của quân đội nhà Trần. Người lính ra trận với tư thế quyết chiến quyết thắng, đã chiến đấu là phải chiến thắng, lập nên kì tích lẫy lừng trong lịch sử, tạo thành sức mạnh dội vang cho thời đại.

=> Hai câu thơ đã thể hiện cảm xúc ngưỡng mộ, tự hào về sức mạnh tự cường, ý thức tự tôn về dân tộc, làm bừng lên khí thế hào hùng, là thời đại cao đẹp với những con người cao đẹp.

b. Hào khí Đông A thể hiện qua nỗi băn khoăn, suy tư về khát vọng lập công danh của con người thời loạn

 + "Nam nhi vị liễu công danh trái”

     Câu thơ nhắc đến chí hướng của nam nhi. Trong văn học trung đại, chữ “nam nhi” gắn liền với lí tưởng công danh; kẻ làm trai sinh ra ở đời phải biết lập công danh, tạo dựng sự nghiệp, để lại tiếng vang trong đời. Lí tưởng công danh đã khích lệ biết bao nam tử hán, để họ sẵn sàng rèn luyện, tu thân sao cho đủ phẩm chất để lập được công danh cho riêng mình.

    Thời điểm viết bài thơ này, Phạm Ngũ Lão đã lập nên công danh kì tích, vẫn mà vẫn băn khoăn "Nam nhi vị liễu công danh trái” thể hiện ý chí vươn lên, không ngừng tu thân để hoàn thiện chính mình. Nó là biểu hiện của nhiệt tâm nhiệt huyết của một người chí sĩ muốn cống hiến cho đất nước dân tộc.

+ “Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu"

- “Vũ Hầu”: nhiều mưu lược, vị quân sự nổi tiếng với tài dùng binh. Vũ Hầu từng giúp Lưu Bị lập nên Thục Hán, sau đã xả thân nơi trận mạc.

- Phạm Ngũ Lão lấy Vũ Hầu làm mẫu mực cho công danh sự nghiệp của mình, lấy làm thẹn khi chưa lập được công danh như Vũ Hầu.

- Câu thơ đã nâng cao nhân cách của Phạm Ngũ Lão, thể hiện lòng nung nấu khát vọng lập công, bày tỏ lòng tận trung với đất nước và khát vọng công hiến cả đời cho dân tộc.

+ Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão mang tầm vóc lớn lao, là nỗi thẹn tu thân với ý chí lập công sắt đá.

   Đặt vào hoàn cảnh ra đời của bài thơ, “Thuật hoài” có thể được coi là lời đáp của con cháu với “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn, tạo nên truyền thống vẻ vang cha dũng con hùng.

3. Đánh giá

+ Hào khí Đông A đã góp phần tạo nên chiến thắng lẫy lừng, tạo nên một thời đại với những kì tích rực rỡ lưu danh sử sách.

+ Hào khí Đông A không chỉ là tư tưởng chung của bài thơ mà còn là của cả thời đại nhà Trần, khiến cho thế hệ trẻ phải suy nghĩ mình sẽ làm gì để xứng đáng với cha ông.

+ Hào khí Đông A là dòng mạch chung của văn học cùng thời kì với bài thơ.

III. Kết bài

- Nêu cảm nhận chung của bản thân.

   VD: Thời đại nào, văn thơ đó. “Thuật hoài” mang đậm sắc màu anh dũng hào hùng, mang theo mạch nguồn hào khí Đông A đi từ cuộc sống vào trang giấy. Bài thơ đã đưa người đọc sống lại một thời rực rỡ đã qua và khiến ta phải suy ngẫm về bổn phận và trách nhiệm của chính mình

Đoạn văn miêu tả hình ảnh trang nam nhi và hào khí Đông A trong bài Tỏ lòng - mẫu 1

Trong bài thơ "Tỏ lòng" của Phạm Ngũ Lão, hình ảnh "trang nam nhi" với hào khí Đông A được miêu tả với vẻ hùng dũng, oai nghiêm. Hình ảnh "trang nam nhi" được đặt trong không gian rộng lớn "non sông" và thời gian dài vô tận "chẵn mấy thu" với tư thế hiên ngang cầm ngọn giáo đã cho thấy tinh thần sẵn sàng chiến đấu bảo vệ đất nước. Hình ảnh, tầm vóc của người tráng sĩ sánh ngang với núi, sông, với tầm vóc hùng vĩ của vũ trụ "Tam quân tì hổ khí thôn ngưu". Mỗi trang nam tử là một người góp phần làm nên sức mạnh quân đội nhà Trần. Những tráng sĩ ấy được ví như loài dũng mãnh, khí thế át cả sao trời. Hình ảnh "trang nam nhi" thời Trần còn gắn liền với hoài bão, lí tưởng cao đẹp. Người nam tử khi chưa trả xong nợ công danh sẽ cảm thấy thẹn khi nghe người đời kể chuyện Vũ Hầu. "Trang nam nhi" là hình ảnh biểu trưng cho quân đội và hào khí Đông A.

Đoạn văn miêu tả hình ảnh trang nam nhi và hào khí Đông A trong bài Tỏ lòng - mẫu 2

Hình ảnh "trang nam nhi" trong bài thơ "Tỏ lòng" của Phạm Ngũ lão là hình ảnh biểu trưng cho hào khí Đông A dưới thời nhà Trần. Trang nam tử hiện lên vô cùng oai dũng với tư thế cầm ngang ngọn giáo "Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu". Người tráng sĩ đã trấn giữ non sông vữa chẵn mấy thu cho thấy tinh thần chiến đấu luôn sục sôi, sẵn sàng bảo vệ đất nước ở mọi thời điểm. Sức mạnh của quân đội nhà Trần vì thế cũng được củng cố và nuôi dưỡng bởi những trang nam tử hào hùng. Người nam nhi tuy trẻ tuổi mà khí phách oai hùng tạo nên khí thế lấn át cả sao trời. Vẻ đẹp của "trang nam nhi" thời Trần còn hiện lên với hoài bão, lí tưởng cao đẹp. Thân nam nhi mà chưa trả xong nợ công danh sẽ cảm thấy luống thẹn khi lắng tai nghe chuyện Vũ Hầu. Hình ảnh của "trang nam nhi" đã cho ta thấy được hào khí Đông A sục sôi dưới thời nhà Trần.

Đoạn văn miêu tả hình ảnh trang nam nhi và hào khí Đông A trong bài Tỏ lòng - mẫu 3

Hình ảnh "trang nam nhi" với "hào khí Đông A" trong bài thơ "Tỏ lòng" của Phạm Ngũ Lão hiện lên vô cùng oai phong, lẫm liệt. Hình ảnh người tráng sĩ được khắc họa với tư thế cầm ngang ngọn giáo thể hiện sự chủ động chiến đấu bảo vệ đất nước. Người tráng sĩ ấy đã trấn giữ non sông vừa chẵn mấy thu. Vẻ đẹp của người tráng sĩ được đặt trong không gian bao la với thời gian vô tận cho thấy sự quyết tâm chống lại kẻ thù. Mỗi "trang nam tử" là một mảnh ghép tạo nên sức mạnh của quân đội nhà Trần. Sức mạnh ấy được ví như loài mãnh hổ, khí thế át cả sao trên trời. Cũng có thể hiểu, người nam nhi tuy trẻ tuổi mà khí phách anh hùng. Hình ảnh trang nam nhi thời Trần không chỉ hiện lên với tư thế hiên ngang mà còn hiện lên với hoài bão, lí tưởng cao đẹp. Trang nam tử cảm thấy trăn trở với món nợ công danh nên cảm thấy thẹn khi lắng tai nghe chuyện Vũ Hầu.

Đoạn văn miêu tả hình ảnh trang nam nhi và hào khí Đông A trong bài Tỏ lòng - mẫu 4

“Trang nam nhi” mà Phạm Ngũ Lão nhắc đến chính là một thể hiện hào khí Đông A thời Trần. Bởi ông cũng là một người dưới thời Trần, thời mà khí thế hào hùng với những con người luôn sôi sục nhiệt huyết, chí lớn trên mọi phương diện đặc biệt trong việc đấu tranh bảo vệ chủ quyền dân tộc. Những con người oai hùng, hào sảng, phóng khoáng đó, mang trong mình dòng máu của trang nam nhi, luôn theo đuổi giấc mộng lập công danh, đánh bại kẻ thù xâm lược, bảo vệ độc lập và hòa bình của dân tộc. Đó là tấm lòng khi chưa làm gì được cho đất nước thì cảm thấy “thẹn”, làm được rồi thì mong muốn làm được nhiều hơn… Một tấm lòng tận trung, tận nghĩa không bao giờ dừng mang theo hào khí Đông A của cả một triều đại.

Đoạn văn miêu tả hình ảnh trang nam nhi và hào khí Đông A trong bài Tỏ lòng - mẫu 5

Trong lịch sử nước nhà, thời đại nhà Trần là một trong những thời đại lịch sử phát triển nhất. Không thể phủ nhận những thành tựu mà quân dân nhà Trần làm cho đất nước trên tất cả các lĩnh vực văn hóa, chính trị, quân sự, kinh tế hay tôn giáo…Nhắc đến nhà Trần là nhắc đến hào khí Đông A. Đặc biệt hào khí ấy không chỉ được nhắc đến trong lịch sử mà nó còn được nhắc đến qua bài thơ Tỏ lòng của vị tướng quân tài ba Phạm Ngũ Lão. Đồng thời qua bài thơ này, nhà thơ cũng muốn thể hiện nỗi “thẹn” của mình. Xưa kia, sinh thời phận làm trai thì phải có công danh và sự nghiệp. Một người nam nhi chân chính là phải có danh với núi sông, có công với đất nước. Chỉ có như thế mới xứng đáng là phận nam tri đầu đội trời chân đạp đất. Cái nợ công danh của nhà thơ vẫn còn trong khi ông đã từng đánh nam dẹp bắc, chặn biết bao nhiêu con đường của giặc đi. Phạm Ngũ Lão – một vị tướng tài ba của nhà Trần thế nhưng ông vẫn khiêm tốn về công danh của mình với vua, với nước. Ông “thẹn” khi nghe chuyện Vũ Hầu bởi vì Vũ Hầu cũng là phận bề tôi như ông. Nhưng Vũ Hầu làm được nhiều việc có công lớn với đất nước với vua hơn. Chính vì thế mà dù Phạm Ngũ Lão tài giỏi và hết lòng vì đất nước nhưng bản thân nhà thơ vẫn không cảm thấy hài lòng với những gì mình đã làm. Theo nhà thơ, có lẽ bấy nhiêu thôi chưa đủ để gọi là công danh với đất nước.Qua đây ta có thể thấy rõ được hào khí Đông A thời nhà Trần và nỗi thẹn của người quân tử, người tướng quân hết lòng ra sinh vào tử vì vua vì nước. Có thể nói hào khí Đông A là yếu tố cơ bản làm nên ba lần chiến thắng giặc nguyên Mông. Đồng thời ta có thể thấy được tấm lòng của vị tướng quân tài ba với đất nước mình. Dẫu có bao nhiêu chiến công hiển hách, Phạm ngũ Lão vẫn thấy chưa đủ để phục vụ cho vua và cho đất nước.

Đoạn văn miêu tả hình ảnh trang nam nhi và hào khí Đông A trong bài Tỏ lòng - mẫu 6

Qua “Tỏ lòng”, Phạm Ngũ Lão đã mở ra một không gian vũ trụ bao la, rộng lớn. Trung tâm nổi bật của không gian ấy là hình ảnh người tráng sĩ thời Trần trong tư thế cầm ngang ngọn giáo đầy hiên ngang, hùng dũng, oai phong, lẫm liệt. “Ngọn giáo” cầm ngang ấy không chỉ đỏ chiều rộng của không gian vũ trụ mà còn là thước đo chiều dài của suốt thời kì dựng nước và giữ nước. Quân và dân ta đã bền bỉ không biết bao nhiêu năm chống lại những mũi nhọn của kẻ thù. Người tráng sĩ được nâng tầm sánh ngang với trời đất vũ trụ như một cách đề cao con người kháng chiến thời bấy giờ. Dù là chiến sĩ trên mặt trận hay người dân trên đất nước đều là những tráng sĩ đồng lòng, đồng cam cộng khổ chiến đấu vì tự do nước nhà.

Đoạn văn miêu tả hình ảnh trang nam nhi và hào khí Đông A trong bài Tỏ lòng - mẫu 7

Cả bài thơ "Tỏ lòng" của Phạm Ngũ Lão được bao trùm bởi lòng tự hào dân tộc, bởi hào khí của con người và thời đại nhà Trần. Được thể hiện thật cô đọng và súc tích, bài thơ đã toát lên cái hào khí oai thiêng của dân tộc Việt Nam, toát lên từ một tâm hồn cao đẹp, một tấm lòng yêu nước vô cùng sâu sắc. Đọc bài thơ, người đọc chúng ta càng cảm thấy tự hào về một triều đại hào hùng trong dòng lịch sử của dân tộc ta, mới có thể hiểu tại sao ở thời đại đó, chúng ta lại có thể ba lần đánh bại đội quân Mông - Nguyên đang tung hoành khắp thế giới. Cái hào khí mà thời đại ấy thể hiện, tuy nó đã trôi qua, nhưng cái tinh thần mà nó đã thể hiện thì còn vang vọng mãi tới tận ngày nay. Thế hệ chúng ta kế tiếp hào khí anh hùng ấy bằng những dấu son chói lọi trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ cứu nước. Và chúng ta càng không thể quên hình ảnh người tráng sĩ chí lớn - Phạm Ngũ Lão, văn võ song toàn, biểu tượng cho bậc trai tráng, cho người chiến binh của thời đại mang hào khí Đông A quyết thắng ấy. "Tỏ lòng" sẽ mãi là bài ca, là tấm lòng của người tướng quân cả cuộc đời vì dân vì nước với lý tưởng và nhân cách cao cả. Thế hệ con cháu chúng ta phải luôn biết rèn luyện nhân cách sống có lý tưởng, có ý chí, quyết tâm thực hiện lý tưởng để không thẹn với thế hệ đi trước, với hào khí anh hùng mà dân tộc ta đã thể hiện qua bao tháng năm qua.

Đoạn văn miêu tả hình ảnh trang nam nhi và hào khí Đông A trong bài Tỏ lòng - mẫu 8

Thời đại nhà Trần là một trong những thời đại oai hùng nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam với chiến công ba lần đánh thắng quân Mông – Nguyên xâm lược. Nhắc đến chiến công ấy, ta không thể không nhớ tới Phạm Ngũ Lão – một danh tướng có nhiều công lao trong cuộc kháng chiến bảo vệ nước nhà.

Ngoài cương vị một võ tướng, ông còn thích đọc sách, ngâm thơ. Bài thơ "Thuật hoài" vừa khắc họa sinh động hình tượng người tráng sĩ thời Trần hiên ngang, bất khuất; vừa thể hiện khát vọng cao đẹp của chính tác giả.Ngay từ câu thơ đầu tiên, tác giả đã mở ra trước mắt người đọc một không gian bao la rộng lớn của sông núi. Cũng trong không gian mênh mông ấy, hình tượng người tráng sĩ thời Trần với tư thế hiên ngang, anh dũng sừng sững hiện lên. Người tráng sĩ ấy cầm ngang ngọn giáo để bảo vệ đất nước. Tư thế ấy, tầm vóc ấy như sánh ngang cùng giang sơn hùng vĩ.

Từ “hoành sóc” vừa khắc họa tư thế hiên ngang, bất khuất vừa tạo nên âm hưởng hào hùng. Người tráng sĩ canh giữ giang sơn không chỉ trong chốc lát. Thời gian dài đằng đẵng được tác giả nhắc đến qua ba từ “kháp kỉ thu” rất nhẹ nhàng. Thời gian mấy thu dung hòa với không gian và con người tạo nên bức tranh có chiều sâu trong đó nổi bật là hình tượng người tráng sĩ hiên ngang, anh dũng. Câu thơ thể hiện lòng tự hào của tác giả đối với vẻ đẹp của con người thời đại nhà Trần.

“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu”

(Múa giáo non sông trải mấy thu)

“Tượng đài” người tráng sĩ dưới ngòi bút của danh tướng họ Phạm còn đẹp và đầy khí thế hơn khi được đem so sánh với đất trời, vũ trụ. Tác giả đã lấy không gian bao la đo lòng dũng cảm, dùng thời gian vô tận thử ý chí. Con người được đặt giữa giang sơn non nước mênh mông mà không hề trở nên nhỏ bé. Bởi “kháp kỉ thu” không chỉ được hiểu là nhiều mùa thu, nhiều năm đã qua mà là thời gian trải suốt một đời người, một thế hệ con dân yêu nước, dùng xương máu, lòng hi sinh của mình đắp lên bờ cõi nước nhà.

Đến câu thơ thứ hai, nhà thơ khiến người đọc cảm nhận một cách rõ nét khí thế của tam quân. Khí thế ấy được đặc tả qua cụm từ “khí thôn ngưu” – khí thế nuốt trâu đầy dũng mãnh. Đội quân ấy chính là tập hợp những tráng sĩ cầm ngang ngọn giáo bảo vệ Tổ quốc.

“Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”

(Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu)

“Tam quân” với hào khí ngút trời, khí thế dũng mãnh, ý chí kiên cường có thể đánh tan mọi kẻ thù, bảo vệ vững chắc giang sơn. Hai câu thơ đầu hiện lên với khí thế hào hùng và vẻ đẹp của con người thời Trần. Nó cũng thể hiện lòng tự hào của Phạm Ngũ Lão về con người thời đại ông. nhà thơ đã bộc lộ cái tài sử dụng ngôn từ cô đọng, hàm súc, giàu ý nghĩa. “Khí thôn Ngưu” có hai cách hiểu. Một là quân đội nhà Trần hùng mạnh, khí thế đến mức át cả ngôi sao Ngưu trên bầu trời. Hai là sức mạnh của “tam quân” khi ra trận hiên ngang, mạnh mẽ như nuốt trôi trâu. Dù hiểu theo nghĩa nào, người đọc vẫn hình dung được tầm vóc, vẻ phi thường của tráng sĩ đời Trần. Cách miêu tả của tác giả lại một lần nữa là tấm gương sáng để các nhà thơ thế hệ sau học tập. Người đọc tiếp tục bắt gặp “hào khí Đông A” trong thơ của Hồ Chí Minh “Quân ta khí mạnh nuốt Ngưu Đẩu/ Thề diệt xâm lăng lũ sói cầy”

Với bút pháp nghệ thuật xây dựng hình tượng người tráng sĩ mang hào khí đời Trần và ngôn ngữ thơ ngắn gọn, súc tích, “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão đã góp một làn gió thổi bừng những trang lịch sử chói lọi trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước của dân tộc.

Thời gian đã phủ một lớp bụi vô hình vào lịch sự, người tráng sĩ khắc trên vai chữ “sát Thát” năm nào nay cũng chỉ còn vang bóng và ngay cả tác giả cũng đã trở thành người thiên cổ. Thế nhưng, “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão sẽ luôn là một tác phẩm ghi dấu trong trái tim người đọc.

Đoạn văn miêu tả hình ảnh trang nam nhi và hào khí Đông A trong bài Tỏ lòng - mẫu 9

Hơn bốn nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã đi qua bao cuộc chiến gian khổ, giành bao chiến thắng hào hùng, oanh liệt. Để có được những chiến công vang dội ấy, cùng với tinh thần đoàn kết dân tộc còn nhờ vào tình yêu nước, tinh thần trách nhiệm của con người, đặc biệt là của các trang nam tử. Viết về tinh thần trách nhiệm, chí của kẻ làm trai, chúng ta không thể không nhắc tới tác phẩm “Thuật hoài” (Tỏ lòng) của Phạm Ngũ Lão. Bài thơ đã tái hiện hình ảnh trang nam nhi thời Trần anh dũng với lòng yêu nước thiết tha và ý thức trách nhiệm, ý chí nghị lực phi thường.

Hình ảnh trang nam nhi thời Trần trước tiên được miêu tả với tấm lòng yêu nước và tinh thần trách nhiệm:

“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu”

(Múa giáo non sông trải mấy thu)

Họ hiện lên trong tư thế hiên ngang và hành động kỳ vĩ, sánh vai cùng vũ trụ. Trong nguyên văn, đấng nam nhi cầm ngang ngọn giáo chứ không “múa giáo” như ở bản dịch thơ. “Giang sơn” vừa gợi tả không gian mang tầm vũ trụ vừa chỉ cụ thể đất nước. Giang sơn còn gợi nhắc đến “thiên, địa, nhân”. Không chỉ có trời và đất, con người cũng vô cùng quan trọng.

Ngọn giáo cầm trên tay chính là biểu tượng cho sức mạnh và lòng yêu nước của nam nhi thời Trần. Nó được đo bởi chiều rộng của đất mẹ, chiều cao của bầu trời, giống như khẳng định chủ quyền dân tộc. Cầm ngang ngọn giáo trên tay, sánh ngang với vũ trụ, trang nam nhi chủ động đứng trong tư thế và tầm nhìn bao quát, sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ giang sơn. Đó là trách nhiệm cũng là sứ mệnh cao cả mà người tráng sĩ cố gắng thực hiện. Bất chấp sự trôi đi của thời gian, sứ mệnh ấy đã trải khắp mấy thu. Chẳng màng nguy hiểm gian nan, thế sự chuyển vần, khát vọng bảo vệ giang sơn vẫn không hề thay đổi. Chỉ một câu thơ ngắn gọn, Phạm Ngũ Lão tái hiện thành công lòng yêu nước và ý thức trách nhiệm với đất nước của nam nhi thời Trần.

Không những thế, hình ảnh trang nam nhi thời Trần còn hiện lên tuyệt đẹp với ý chí chiến đấu và sức mạnh phi thường:

“Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu”

(Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu)

Lịch sử ghi lại, triều đại nhà Trần, quân đội chia ra thành ba bộ phận: Tiền quân, Trung quân, Hậu quân. Mỗi bộ phận tuy có nhiệm vụ và trách nhiệm riêng. Song tất cả đều khí phách hơn người, được huấn luyện vô cùng nghiêm khắc. Khổ luyện nhiều năm, những đấng nam nhi đầu đội trời chân đạp đất ai cũng mang trong mình sức mạnh cường tráng. Sức mạnh ấy thậm chí có thể dễ dàng nuốt trôi một con trâu lớn. Phạm Ngũ Lão đã sử dụng hình ảnh so sánh cường điệu hóa, khắc họa và làm nổi bật vẻ đẹp sức mạnh của người nam nhi thời Trần.

Họ không chỉ mạnh mẽ về thể chất mà còn sở hữu ý chí chiến đấu ngoan cường. Với những yếu tố đó, đội quân nhà Trần trở nên vô cùng mạnh mẽ. Sự thật là họ đã giành chiến thắng, 3 lần đánh tan giặc Nguyên Mông xâm lược. Họ mang trong mình phẩm chất anh hùng, cùng nhau viết lên bảng vàng lịch sử hào khí Đông A chói lọi của thời đại.

Bên cạnh đó, chúng ta còn có thể nhận ra hoài bão và lý tưởng công danh của trang nam nhi thời Trần:

 “Nam nhi vị liễu công danh trái”

(Công danh nam tử còn vương nợ)

 Nói như Nguyễn Công Trứ :

“Đã mang tiếng ở trong trời đất

 Phải có danh gì với núi sông”

Công danh vốn là quy luật tất yếu trong cuộc đời đấng nam tử. “Nợ công danh” là món nợ ai cũng phải trả, nam nhi thời Trần cũng không ngoại lệ. Nhưng, với những người tráng sĩ “bình Nguyên” thuở ấy, thời điểm đất nước đang bị giặc lăm le xâm chiếm thì “nợ công danh” mà họ phải trả lại ở một tầm vóc khác. Đó là sự cống hiến hết mình, làm sao sao để bảo vệ độc lập chủ quyền, để nhân dân ấm no, yên ổn.

Có thể nói, quan niệm của Phạm Ngũ Lão trong bài thơ có ý nghĩa vô cùng to lớn. Nó cổ vũ con người, đặc biệt là trang nam tử từ bỏ lối sống tầm thường, ích kỷ, đánh thức trách nhiệm với non sông, Tổ quốc. Với quan niệm ấy, mặc dù đã hết mực cống hiến hy sinh, người nam nhi thời Trần vẫn cảm thấy chưa đủ và hổ thẹn :

“Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”

( Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu )

Gợi nhắc câu chuyện cổ về Gia Cát Lượng, Phạm Ngũ Lão thể hiện sự hổ thẹn của mình. Là một trong ba danh tướng tài ba tài ba nhất thời Trần, suốt cuộc đời, Phạm Ngũ Lão không hề làm điều thẹn với dân, với nước, với chính mình. Nói thẹn thực ra là sự khiêm nhường của tác giả. Thể hiện niềm khao khát vươn tới những thứ lớn lao, vĩ đại hơn. Nỗi thẹn ở đây không khiến hình ảnh trang nam nhi trở nên nhỏ bé mà giúp chúng ta thấy được tầm vóc lớn lao và ý chí mãnh liệt của họ. Có thể nói, chỉ với bốn câu thơ ngắn gọn, lời thơ đanh thép, hào hùng cùng những hình ảnh thơ lớn lao, kì vĩ. Nhịp thơ biến hóa linh hoạt, lúc nhanh mạnh dứt khoát, khi chậm rãi suy tư. “Thuật hoài” đã khắc họa thành công hình ảnh trang nam nhi thời Trần với vẻ đẹp của người anh hùng vệ quốc hiên ngang, có lý tưởng, hoài bão, có ý chí nghị lực và sức mạnh phi thường. Những năm tháng kháng chiến thuở ấy, họ đã hiên ngang bất khuất, chiến đấu và hy sinh cho Tổ Quốc. Cùng viết lên những trang sử vàng cho dân tộc.

Đồng thời bài thơ cũng góp phần khẳng định tài năng thi ca và vẻ đẹp nhân cách sáng ngời của vị tướng tài ba Phạm Ngũ Lão. Hình ảnh trang nam nhi thời Trần trong “Thuật hoài” cùng những bài thơ như “Hịch tướng sĩ” “Bạch Đằng giang phú”... đã dựng lên những tượng đài bất tử về người anh hùng dân tộc trong lòng chúng ta. Để rồi rất nhiều năm qua đi, nhân dân Việt Nam vẫn nghe mãi âm vang của một thời “hào khí Đông A” hào hùng oanh liệt.

Qua Thuật Hoài, Phạm Ngũ Lão đã mở ra hình tượng trang nam nhi thời Trần, yêu nước, hào sảng, giàu trách nhiệm. 

Đoạn văn miêu tả hình ảnh trang nam nhi và hào khí Đông A trong bài Tỏ lòng - mẫu 10

Phạm Ngũ Lão là một nhận vật lịch sử có công lớn trong cuộc kháng chiến cống Nguyên – Mông, được mệnh danh là “Phúc tướng” của đời Trần. Con người ấy chính trực, khí khái, sống chan hòa và luôn chia ngọt sẻ bùi với quân sĩ của mình. Ông còn là người văn võ toàn tài. Văn thơ để lại tuy ít nhưng thể hiện mạnh mẽ hào khí một thời oanh liệt của dân tộc. Thuật hoài (Tỏ lòng) là bài thơ thể hiện chí nam nhi của người trai thời loạn, muốn vươn tới chiến công hiển hách, lưu danh thiên cổ.

Thuật hoài

Hoành sóc giang sơn kháp kỷ thu,

Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu.

Nam nhi vị liễu công danh trái,

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.

Dịch nghĩa:

Cắp ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu,

Ba quân như gấu hổ, át cả sao Ngưu Đẩu.

Thân nam nhi nếu chưa trả xong nợ công danh,

Ắt thẹn thùng khi nghe người đời kể chuyện Vũ hầu.

Bài thơ được sáng tác khoảng cuối năm 1284 khi cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông – Nguyên đến gần. Trước thời khắc trọng đại của lịch sử, người anh hùng nhìn nhận lại bản thân, củng cố sĩ khí, chuẩn bị cho những cuộc chiến ác liệt bảo vệ biên cương bờ cõi. Có thể xem bài thơ Thuật hoài là một bản “phê bình” trung thực nhằm nâng cao ý chí chí chiến đấu, kiện toàn bản thân của dũng tướng Phạm Ngũ Lão.

      Thời đại ra đời của hào khí Đông A, vua tôi tiến sĩ dân đồng sức đồng lòng chiến đấu đánh đuổi kẻ thù xâm lược. Nội dung chủ đạo của nền văn học trung đại Việt Nam giai đoạn từ thế kỉ X- XIV là nội dung yêu nước. Tâm lược Hịch tướng sĩ văn vang dậy núi sông của Trần Hưng Đạo, khúc ca khải hoàn đại thắng Phò giá về kinh của Trần Quang Khải, áng văn vô tiền khoáng hậu Phú Sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu, … và cả trong lời Tỏ lòng của kẻ làm trai thời loạn Phạm Ngũ Lão là những áng văn bất hủ, có sức mạnh khơi bừng sĩ khí đến muôn đời. Tâm thế ấy, sĩ khí ấy được thể hiện ngay ở hai câu thơ đầu:

“Hoành sóc giang sơn kháp kỷ thu,

Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu.”

(Cắp ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu,

Ba quân như gấu hổ, át cả sao Ngưu Đẩu)

     Bài thơ mở ra hình ảnh người tướng sĩ “hoành sóc” (cầm ngang ngọn giáo) bảo vệ non sông, đất nước. Đó là hình ảnh một con người có tầm vóc kì vĩ, hiên ngang, hùng dũng phi thường. Con người này ý thức được trách nhiệm, trọng trách của mình là bảo vệ quê hương đất nước. Kích thước ngọn giáo đo bằng nhiều chiều dài nọn sông làm  nên tầm vóc vĩ đại của người tráng sĩ vệ quốc.

      Cầm ngang ngọn giáo (hoành sóc) là một tư thế chiến đấu vô cùng hiên ngang dũng mãnh. Câu thơ “Hoàng sóc giang sơn kháp kỉ thu”  là một câu thơ có hình tượng kì vĩ tráng lệ, vừa mang không gian tầm vóc giang sơn vừa mang kích thước thời gian chiều dài lịch sử (kháp kỳ thu). Nó thể hiện tư thế người chiến sĩ thuở “bình Nguyên” (dẹp giặc Nguyên) ra trận hiên ngang, hào hùng như các dũng sĩ trong huyền thoại. Chủ nghĩa yêu nước được biểu hiện qua một vầng thơ cổ kính trang nghiệm: cầm ngang ngọn giáo, xông pha trận mạc suốt mấy mùa thu để bảo vệ giang sơn yêu quý.

     Câu thơ có một không gian rộng lớn, bát ngát mênh mông, trải khắp, mở ra theo chiều rộng “non sông”. Thời gian trải dài mà vẫn xác thức cụ thể không phải chốc lát mà đã “mấy thu rồi”. Không thời gian ấy càng làm nổi bật hình ảnh con người. Tư thế hiên ngang tầm vũ trụ và con người kì vĩ như át cả không gian bao la

“Tam quan tỳ hổ khí thôn Ngưu”

(Ba quân như gấu hổ, át cả sao Ngưu Đẩu)

     Trong câu thơ thứ hai, hình ảnh “ba quân” tượng trưng cho quân đội nhà trần nhưng đồng thời nói lên sức mạnh của cả dân tộc. Biện pháp so sánh và cường điệu phóng đại đã được sử dụng để khẳng đinh sức mạnh của ba quân. Sức mạnh của khí thế “sát thát” ra trận vô cùng đông đảo, trùng điệp (ba quân) với sức mạnh phi thường, mạnh như hổ báo ( tỷ hổ) quyết đánh tan mọi kẻ thù xâm lược. Khí thế của đội quân ấy  ào ào ra trận, không một thế lực nào, kẻ thù nào có thể ngăn nổi.

      “Khí ngôn ngưu” nghĩa là khí thế, tráng trí nuốt  cả sao Ngưu, lấn át và làm lu mờ sao Ngưu trên bầu trời. Hoặc có thể hiểu: ba quân thế mạnh nuốt trôi trâu. Biện pháp tu từ thậm xứng sáng tạo nên một hình tượng thơ mang tầm vóc hoành tráng, vũ trụ: “Tam quân tì hồ khí Ngưu”. Hình ảnh ẩn dụ so sánh: “Tam quân tì hồ …” trong thơ Phạm Ngũ Lão rất độc đáo. Không chỉ có sức biểu hiện sâu sắc sức mạnh vô địch của quân đội quân “Sát Thát” đánh đâu thắng đấy mà còn là khơi nguồn cảm hứng thơ ca. Hình ảnh ấy tồn tại như một điển tích, một thi liệu sáng giá trong nền văn học dân tộc.

Mối quan hệ giữa cá nhân anh hung và cộng đồng anh hung làm nên sức mạnh thời đại được thể hiện sâu đậm qua hai câu thơ cuối:

“Nam nhi vị liễu công danh trái,

Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu.”

(Thân nam nhi nếu chưa trả xong nợ công danh,

Ắt thẹn thùng khi nghe người đời kể chuyện Vũ Hầu)

      Người chiến sĩ “bình Nguyên” mang theo một ước mơ cháy bỏng: khao khát lập chiến công để đền ơn vua, báo nợ nước. Thời đại anh hùng mới có khát vọng anh hùng “phá cường địch, báo hoài ân” (Trần Quốc Toản) – “ thân này gói trong da ngựa, ta cũng cam long” (Trần Quốc Tuấn) …  Khát vọng ấy là biểu hiện rực rỡ những tấm lòng trung quân ái quốc của tướng sĩ, khi tầng lớp quý tộc của đời Trần trong xu thế đi lên đang gánh vác sứ mệnh lịch sử trọng đại. Họ mơ ước về những chiến tích hiển hách, về những võ công oanh liệt của mình có thể sách ngang tầm sự nghiệp anh hùng của Vũ Hầu Gia Cát Lượng thời tam Quốc.

     Công danh đó chính là cái đạo lập thân của kẻ sĩ thời phong kiến. Lập công để lại sự nghiệp và lập danh để lại tiếng thơm, là nghĩa vụ với dân, với nước. Xem công danh là cái “nợ” không phải là tư tưởng của kẻ háo danh mà là suy tư về chí làm trai, trách nhiệm làm trai ở trên đời.

Với đấng nam nhi, công danh là cái chí, khát vọng làm nên sự nghiệp lớn. Sự khẳng định tài năng và cống hiến, đưa con người thoát khỏi lối sống tầm thường, ích kỉ sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp lớn lao “cùng trời đất muôn đời bất hủ”.

     Phạm Ngũ Lão cũng từ cái chí, cái nợ nam nhi, nam tử đó mà cùng dân tộc chiến đấu chống xâm lược bền bĩ, ròng rã bao năm. Đặc biệt ở đây cũng từ cái chí, cái nợ đó mà nảy sinh trong tâm trạng một nỗi thẹn. Nói cách khác cái tâm thể hiện nỗi thẹn…

“Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”

(Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu)

     Phạm Ngũ Lão “thẹn” chưa có tài mưu lược lớn như Vũ Hầu Gia Cát Lượng đời Hán để trừ giặc, cứu nước. Ông thẹn bởi vì so với bậc quân sư kia mình chưa có cái gì đáng nói. Gia Cát Lượng là quân sư của Lưu Bị, mưu trí tuyệt vời. Song điểm làm cho Gia Cát Lượng nổi tiếng là lòng tuyệt đối trung thành với chủ. Vì  thế “luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu thực chất là lời suốt đời  tận tụy với chủ tướng Trần Hưng Đạo.

     Thẹn còn được hiểu là cách nói chuyện khát vọng hoài bão muốn sách với Vũ hầu. Thẹn với Khổng Minh – Gia Cát Lượng không phải lỗi thẹn của sự tự ti, hoặc cảm thấy sự khiêm tốn mà là khát vọng mãnh liệt. Vì hiểu rõ ý nghĩa sống còn của kẻ làm trai trong thời loạn loạn là phải phải gắn mình với vận mệnh đất nước. Nỗi thẹn ấy làm con người thấp bé đi mà góp phần nâng cao nhân cách gắn mình với vận mệnh đất nước.

Xưa nay, những người có nhân cách vẫn thường mang trong mình nỗi thẹn, Nguyễn Khuyến trong bài thơ “Thu vịnh” từng bày tỏ nỗi thẹn vì chưa trả xong nợ nước. Đó là nỗi thẹn có giá trị nhân cách. Trong bài Thuật hoài, Phạm Ngũ Lão thẹn vì chưa trả ...

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Đấu trường tri thức | Lazi Quiz Challenge +500k
Gửi câu hỏi
×