Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phân tích bài Ca dao hài hước

2 trả lời
Hỏi chi tiết
6.421
4
2
Phạm Minh Trí
01/08/2017 00:55:47
Đề bài: Phân tích bài Ca dao hài hước.
Bài làm

I - NHỮNG KIẾN THỨC CƠ BẢN
Ca dao hài hước, châm biếm là những bài ca dao để giải trí hoặc phê phán những hiện tượng đáng cười trong cuộc sống. Cũng như truyện cười, vè, ca dao hài hước, châm biếm thể hiện tập trung các nét đặc sắc của nghệ thuật trào lộng Việt Nam như: đối lập, phóng đại, chơi chữ, ngoa dụ. Những bài ca dao hài hước đã chứng tỏ sự thông minh, tinh thần đấu tranh và lạc quan của người Việt Nam trong cuộc sống.

Khái niệm cái cười và cái đáng cười, tiếng cười hài hước có ý nghĩa mua vui, giải trí và tiếng cười châm biếm, phê phán xã hội đã được trình bày ở phần I - Những tri thức bổ trợ trong bài Tam đại con gà và Nhưng nó phải bằng hai mày trong sách này.
II - PHÂN TÍCH TÁC PHẨM
1. Đặc điểm về nội dung
Bài 1
Đây là tiếng cười tự trào (tự cười mình) mang ý vị hài hước, vui vẻ của người lao động trong cảnh nghèo. Lời đối đáp giữa chàng trai - cô gái về việc dẫn cưới và thách cưới có những điều lạ lùng. Cưới xin là những công việc quan trọng của một đời người nhưng ta hãy nghe họ nói với nhau những gì.
Bài ca có kết cấu hai vế đối đáp quen thuộc, vế đầu là lời chàng trai. Bằng lối nói khoa trưong, phóng đại, anh nói với nàng về lễ vật dẫn cưới mà mình lựa chọn để hỏi cưới nàng. Một loạt biện pháp đối lập : tự nêu ra, nâng lên rồi lại tự phủ định:
Cưới nàng, anh toan dẫn voi,
Anh sợ quốc cấm, nên voi không bàn.
Dẫn trâu, sợ họ máu hàn,
Dẫn bò, sợ họ nhà nàng co gân.
Miễn là có thú bốn chân,
Dẫn con chuột béo, mời dân, mời làng.
Chàng trai đã khéo chọn lí do rất họp lí để phủ định những đồ dẫn cưới cao sang, để tạo nên sự giảm dần : voi -> trâu -> bò -> chuột. Chẳng ai đi dẫn cưới bằng chuột. Nếu bình thường, người nghe có thể cho đây là lối nói mĩ tự, ba hoa hoặc coi thường bạn gái, nhưng nghe lời đối đáp của cô gái thì chúng ta hiểu rằng họ đã rất hiểu nhau.
Cô gái đáp lại cũng bằng lối đùa vui như thế, không mĩ tự, không tự đề cao mà cũng theo lối nói giảm dần : củ to -> củ nhỏ -> củ mẻ -> củ rím, củ hà. Cách nói vui đùa thể hiện ngay ở câu đầu :
Chàng dẫn thế, em lấy làm sang,
Nỡ nào em lại phá ngang như là...
Người ta thách lợn thách gà,
Nhà em thách cưới một nhà khoai lang.
Chàng trai dẫn cưới bằng thú bốn chân (chuột) đã lạ đời. Ở đây cô gái lại thách cưới bằng một nhà khoai lang thì có lẽ trên đời chưa từng có. Cô lại phân loại cả "nhà khoai" ấy thành các loại trong sự tính toán tỉ mỉ, kĩ càng. Củ to mời làng ; củ nhỏ mời họ hàng ; củ mẻ cho trẻ ăn ; củ rím, củ hà thì cho gà, lợn ăn. Đây là một chàng trai biết lo xa, biết tính toán và có trách nhiệm với nhà gái ; còn cô gái thì tỏ ra là một cô gái thật biết quán xuyến việc nhà, tằn tiện lo toan. Bài ca dao là tiếng cười vui, sảng khoái, cười cợt với cái nghèo của mình và của bạn. Họ không mặc cảm, tự ti khi nói ra cái nghèo của mình, và họ cũng tỏ ra bình thản, thông cảm với cái nghèo của bạn biết bao. Phải chăng khi hai người đối đáp xong bài ca, cả hai cùng cười vui giòn giã. Quả là người Việt Nam có tâm hồn thật khoẻ khoắn, lạc quan, dẫu trong cảnh ngộ nào cũng có thể tìm thấy cái lẽ vui sống một cách lành mạnh, khiến cho họ dường như không bao giờ bị đè bẹp bởi hoàn cảnh mà luôn đứng cao hơn hoàn cảnh.
Nghệ thuật gây cười của bài ca là nghệ thuật nâng cao - hạ thấp, lựa chọn sự vật phù hợp với lập luận của mình để đưa ra các chi tiết hài hước nhất, làm điểm nhấn tạo nên cao trào bật ra tiếng cười :
- Miễn là có thú bốn chân,
Dẫn con chuột béo, mời dân, mời làng.
- Bao nhiêu củ rím, củ hà,
Để cho con lợn, con gà nó ăn...
Thách cưới bằng khoai lang và còn phải lo cả củ rim, củ hà nửa thì thật nực cười. Thủ pháp gây cười là tạo nên chi tiết sinh động làm bật ra tiếng cười với chi tiết hài hước sinh động nhất.

Bài 2,3:
Hai bài ca dao này cùng có chung cảm hứng phê phán những người đàn ông yếu đuối, ươn hèn, vô tích sự. Nghệ thuật tạo dựng cái cười là biết đi vào khai thác những cái trái tự nhiên, trái với những quy luật của cuộc sống hằng ngày. Cái đáng cười là cái chứa đựng mâu thuẫn. Mâu thuẫn trong cái đáng cười này là lẽ ra những người đàn ông trong con mắt người đời, đặc biệt là trong xã hội phong kiến phụ quyền thì rất đỗi oai phong. Họ thuộc phái mạnh, luôn là chỗ dựa để người phụ nữ nương tựa (người phụ nữ xưa lấy chồng luôn mong mỏi được có chỗ dựa vững chắc, được “núp bóng tùng quân”).
Đã có bao câu ca lưu truyền mở đầu bằng hai chữ "làm trai" hàm ý tôn vinh bậc nam nhi:
- Làm trai quyết chí tang bồng
Sao cho tỏ mặt anh hùng mới cam.
- Làm trai cho đáng nên trai,
Xuống Đông, Đông tĩnh, lên Đoài, Đoài tan.
- Làm trai cho đáng nên trai,
Phú Xuân đã trải, Đồng Nai cũng từng.
Cùng hệ thống câu mở đầu, nhưng những bài ca dao sau đây lại chứa đựng ý nghĩa khác. Hai bài ca tạo nên tiếng cười trào phúng bởi chúng được xây dựng nhờ thủ pháp đối lập, nâng cao để hạ thấp, đột ngột tạo sự bất ngờ:
Làm trai cho đáng sức trai,
Khom lưng chống gối, gánh hai hạt vừng.
Những chữ đầu phản ánh chí làm trai oai hùng đầy kiêu hãnh. Phải chăng chàng trai đang khom lưng chống gối gánh vác son hà ? Nhưng không, chàng trai này lại "khom lưng chống gối" để "gánh hai hạt vừng". Bài ca dao sử dụng thủ pháp nâng cao rồi đột ngột hạ thấp, khoa trương phóng đại tối đa, phê phán chàng trai yếu đuối về thể xác và chắc chắn yếu đuối cả về tinh thần.
Chồng người đi ngược về xuôi,
Chồng em ngồi bếp sờ đuôi con mèo.
Bài ca dao trên đã sử dụng thủ pháp đối lập giữa "chồng người" - "chồng ta". Sự đối lập về không gian hoạt động "đi ngược về xuôi" <-> "ngồi bếp". Ngồi bếp làm gì ? Chỉ rụt rè sờ đuôi con mèo -> có khác chi con mèo lười nơi xó bếp ? Qua đó tiếng cười hướng vào nhông "đức ông chồng" vô tích sự, lười nhác, ươn hèn, và còn rất nhiều những câu ca dao tương tự:
- Chồng người đi Hán về Hồ
Chồng em ngồi bếp rang ngô cháy quần.
- Chồng người lội suối trèo đèo
Chồng em cầm đũa đuổi mèo quanh mâm.

Bài 4:
Bài ca dao này phê phán những người đàn bà lười biếng, cẩu thả, bẩn thỉu, vô duyên. Có một điều đặc biệt là truyện cười dân gian hay lấy nhân vật nam giới làm đối tượng gây cười như tham lam, khoác lác, lười biếng, phụ nữ ít bị trở thành đối tượng gây cười. Ca dao hài hước đã làm nhiệm vụ cân bằng lại sự thiếu khuyết đó. Trong ca dao trào phúng, không ít lần người phụ nữ bị phê phán, chê cười bởi những thói xấu của họ. Thủ pháp phóng đại, cường điệu được sử dụng tạo ấn tượng phê phán rất mạnh :
Lỗ mũi mười tám gánh lông,
Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho.
Đèm nằm thì ngáy o o ...
Chồng yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà.
Đi chợ thì hay ăn quà,
Chồng yêu chồng bảo về nhà đỡ cơm.
Trên đầu những rác cùng rơm,
Chồng yêu chồng bảo hoa thơm rắc đầu!
Tiếng cười cất lên phê phán những người đàn bà đoảng vị, đồng thời cũng có ý phê phán những người chồng mù quáng, quá yêu vợ mà không phân biệt được tốt - xấu, thực - hư.
Nếu tiếng cười ở bài 1 là tiếng cười tự trào, hài hước có mục đích mua vui, giải trí, thể hiện nét đẹp lạc quan, vui sống, chấp nhận cái nghèo, cảm thông chia sẻ với những người cùng cảnh ngộ thì ba bài ca dao hài hước sau không có ý nghĩa như thế. Ba bài này, tiếng cười có ý nghĩa phê phán cái xấu, cái chưa hoàn thiện trong nội bộ nhân dân. Tiếng cười có ý nghĩa giải trí, là hoa tặng cuộc đời, đồng thời là công cụ đấu tranh với những cái lạc hậu, bảo thủ trong nội bộ nhân dân và cả với kẻ thù của xã hội. Cái cười thường nhân danh cái đẹp để phê phán cái xấu vói hi vọng thanh lọc những điều chưa tốt đẹp và vươn tới sự hoàn thiện của cái tốt, cái đẹp.
2. Đặc điểm về nghệ thuật
- Bốn bài ca đều thành công nhờ sự tạo dựng tình huống gây cười, hàm chứa các mâu thuẫn :
+ Việc có ý nghĩa trọng đại như cưới xin <-> với đồ dẫn cưới có tính chất đùa vui (bài 1).
+ Người đàn ông lẽ ra phải mạnh mẽ, giỏi giang <-> với người đàn ông lười nhác, ươn hèn, yếu ớt (bài 2) ; đối lập chồng người <-> chồng ta (bài 3).
+ Người đàn bà lẽ ra phải duyên dáng, sạch sẽ <-> với người đàn bà cẩu thả, luộm thuộm, vô duyên ; vợ xấu <-> chồng cho là đẹp (bài 4).
- Biện pháp phóng đại, khoa trương được sử dụng ở cả bốn bài ca :
+ Dần cưới bằng chuột, bằng khoai rím, khoai hà,... (bài 1).
+ “Khom lưng chống gối, gánh hai hạt vừng...” (bài 2).
+ “Lỗ mũi mười tám gánh lông...” ; “Đêm nằm thì ngáy o o...” (bài 4).
- Biện pháp "nâng cao hạ thấp" tạo sự bất ngờ khiến tiếng cười vang lên giòn giã (bài 1, 2).

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
Nga
11/04/2021 15:22:15
+4đ tặng

Ca dao là một thể loại trữ tình dân gian góp phần không nhỏ vào việc làm nên sự phong phú đa dạng của nền văn học Việt Nam. Ca dao hài hước với những nét đặc sắc của nghệ thuật trào lộng dân gian đã tạo ra nhiều tiếng cười cho con người, trong đó không thể không nhắc đến bài ca dao hài hước số một trong chương trình Ngữ văn lớp 10.

Mở đầu bài ca dao là lời dẫn cưới của chàng trai:

- Cưới nàng, anh toan dẫn voi
Anh sợ quốc cấm, nên voi không bàn.
Dẫn trâu, sợ họ máu hàn
Dẫn bò, sợ họ nhà nàng co gân.
Miễn là có thú bốn chân
Dẫn con chuột béo, mời dân, mời làng.

Chàng trai sử dụng biện pháp liệt kê đưa ra một loạt vật dẫn cưới: voi, trâu bò, chuột béo bằng lối nói khoa trương, cường điệu, phóng đại. Chàng trai đang tưởng tượng về một lễ cưới linh đình, sang trọng với những lễ vật có giá trị. Đó cũng là ước mơ của những chàng trai thôn quê về một ngày vu quy sung túc. Tuy nhiên, những lễ vật giá trị ấy được nói giảm dần từ voi – trâu – bò và cuối cùng dừng lại ở con chuột béo; điều này tái hiện lại hành trình từ tưởng tượng đến trở về với hiện thực của chàng trai. Con người luôn muốn mơ ước, hướng đến những điều to lớn, tốt đẹp nhưng cũng luôn thức tỉnh với thực tại khó khăn, hoàn cảnh thiếu thốn của mình.

Để an ủi chính mình, chàng trai sử dụng thủ pháp tương phản đối lập được sử dụng tài tình, khéo léo để nói về hiện thực: Dẫn voi – quốc cấm, dẫn trâu – máu hàn, dẫn bò – co gân. Lời giải thích vô cùng hợp tình hợp lí, chính đáng vì lí do chấp hành pháp luật, lo cho sức khỏe họ hàng hai bên chứ không phải vì chàng trai không có. Cách nói thể hiện sự hài hước, dí dỏm, đáng yêu, thông minh của chàng trai, bên cạnh đó, điều này cũng chính minh rằng đây là một anh chàng vô cùng lạc quan. Chi tiết hài hước: “Miễn là có thú bốn chân/Dẫn con chuột béo mời dân mời làng” thể hiện sự đối lập hài hước: thú bốn chân gợi ra hình ảnh những con vật to lớn, có giá trị. Con chuột béo là loài vật nhỏ bé, có hại và bị người nông dân ghét bỏ. Xưa nay chưa từng thấy ai mang chuột đi hỏi vợ và cũng không thể có một con chuột nào to lớn để có thể mời dân mời làng; chi tiết hài hước này vừa đem lại tiếng cười sảng khoái, vừa thể hiện sự vui tươi, hóm hỉnh của chàng trai, một tâm hồn lạc quan, phóng khoáng, yêu đời.

Trước sự hóm hỉnh, dí dỏm của chàng chai, cô gái cũng có những lời đối đáp hài hước.

- Chàng dẫn thế, em lấy làm sang,
Nỡ nào em lại phá ngang như là...
Người ta thách lợn thách gà,
Nhà em thách cưới một nhà khoai lang:
Củ to thì để mời làng,
Còn như củ nhỏ, họ hàng ăn chơi.
Bao nhiêu củ mẻ, chàng ơi!
Để cho con trẻ ăn chơi giữ nhà;
Bao nhiêu củ rím, củ hà,
Để cho con lợn, con gà nó ăn...

Trước lời dẫn cưới của chàng trai cô gái “lấy làm sang” vừa thể hiện sự tôn trọng với người con trai vừa cho thấy đây là cô gái dí dỏm, vui tươi không kém bạn đời. Lời nói “Nỡ nào em lại phá ngang” thể hiện ý nhị, khiêm tốn, thông cảm với hoàn cảnh của chàng trai. Cô gái này không chỉ vui vẻ mà còn vô cùng hiểu chuyện. Thủ pháp tương phản đối lập: người ta – nhà em, lợn gà – nhà khoai lang cho thấy sự độc đáo, bất thường trong lời thách cưới bởi những lễ vật ấy bình dị đến mức tầm thường. Trước lễ vật tầm thường ấy, cô gái đã có lời gải thích về yêu cầu của mình qua cách nói giảm dần: To – nhỏ - mê – rím – hà cho ta thấy rằng cô gái sẵn sàng đón nhận những lễ vật tầm thường nhất mà không cần lựa chọn, sắp xếp gì. Lễ vật được cô chia phần, sắp xếp hợp lí: Mời làng, mời họ, con trẻ, lợn gà thể hiện cô là người phụ nữ đảm đang, tháo vát, khéo léo, sống có trước có sau, coi trọng tình nghĩa.

Thông qua lời thách cưới và dẫn cưới bất bình thường của chàng trai và cô gái đã cho thấy tâm hồn lạc quan, yêu đời, hài hước của những chàng trai, cô gái thôn quê trong cảnh nghèo khó. Chàng trai tự ý thức được cái nghèo của mình mà tự trào, tự cười cợt, cô gái thấu hiểu cảnh ngộ của hai gia đình mà vui vẻ đón nhận vì cô là người coi trọng tình nghĩa hơn của cải.

Bài ca dao không chỉ giúp người đọc có thêm tiếng cười sảng khoái, thư giãn mà nó còn giúp chúng ta hiểu hơn về những con người tình nghĩa bấy giờ, dù hoàn cảnh có thế nào đi nữa ở họ vẫn toát lên sự lạc quan đáng ngưỡng mộ và học tập. Nhiều năm tháng qua đi nhưng bài ca dao vẫn giữ được giá trị của nó và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng nhiều thế hệ bạn đọc.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan
Bài tập Ngữ văn Lớp 10 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư