Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phân tích bài thơ Tỏ Lòng của Phạm Ngũ Lão

3 trả lời
Hỏi chi tiết
4.172
4
4
Nguyễn Thị Thương
01/08/2017 02:05:39
Đề bài: Phân tích bài thơ Tỏ Lòng (thuật hoài) của Phạm Ngũ Lão
Bài làm

I - NHỮNG KIẾN THỨC BỔ TRỢ
1. Về tác giả và thòi điểm tác phẩm ra đời
- Phạm Ngũ Lão (1255 - 1320) người làng Phù Ủng, huyện Đường Hào (nay thuộc huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên), là con rể (lấy con gái nuôi) của Trần Hưng Đạo. Ông có nhiều công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên. Lúc ông qua đòi, vua Trần Minh Tông ra lệnh nghỉ chầu năm ngày để tỏ lòng tưởng nhớ.
- Có căn cứ để xác định bài thơ được sáng tác vào thời điểm sau chiến thắng vang dội chống quân xâm lược Mông - Nguyên các năm 1285 và 1288. Là một người đã trực tiếp tham gia các trận đánh này, tác giả hồi tưởng về không khí hào hùng của quân dân ta và nghĩ về trách nhiệm của bản thân trong cuộc kháng chiến ấy.

- Một giai thoại về Phạm Ngũ Lão : Ông mãi suy nghĩ về việc chống quân xâm lược đến nỗi quân lính đâm giáo vào đùi mà không biết.
- Tác phẩm của ông hiện còn hai bài thơ là Tỏ lòng (Thuật hoài) và Viếng Thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương (Vãn Thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương).
2. Tri thức văn hoá
Quân Mông - Nguyên là đạo quân thiện chiến, vó ngựa của chúng đã từng tung hoành trên một vùng không gian rộng lớn từ Âu sang Á. Nhưng khi xâm lược Việt Nam, chúng đã ba lần chịu thất bại nhục nhã. Một bài thơ của sứ giả nhà Nguyên là Trần Phu viết đã phần nào ghi lại tâm trạng sợ hãi của quân xâm lược khi đến nước ta :
Kim qua ảnh lí đan tâm khổ,
Đồng cổ thanh trung bạch phát sinh.
(Trong bóng loè của binh khí, lòng son cay đắng,
Giữa tiếng rộn của trống đồng, tóc bạc mọc ra.)
Chính những con người với phẩm chất anh hùng như Phạm Ngũ Lão đã làm nên hào khí Đông A chói lọi đó.
3. Tri thức về thể loại
Bài thơ thuộc thể thơ Đường luật tứ tuyệt. Một bài thơ kể cả tứ tuyệt hay thất ngôn bát cú thường được cấu tạo bởi hai phần khác nhau rõ rệt. Phần đầu thường là các cảnh vật hay sự việc (gọi tắt là cảnh vã sự). Các cảnh và sự này gọi nên ở nhà thơ những suy nghĩ, tâm trạng, cảm xúc (gọi là tình), số câu chữ dành cho cảnh, sự và tình không cố định ở các bài thơ. Có bài thì cảnh và sự được nói nhiều, có bài tình lại chiếm nhiều câu chữ hơn. Trong bài thơ này, hai câu đầu dành cho cảnh và sự, hai câu sau dành cho suy tư, cảm xúc.
II - PHÂN TÍCH TÁC PHẨM
1. Đặc điểm về nội dung
a) Những khái niệm cần chú ý
Trong bài thơ, cần chú ý một số khái niệm như : giang son, khí thôn ngưu, nam nhi, công danh trái, Vũ hầu.
- Giang sơn (sông núi) : là từ chỉ đất nước. Nó vừa là từ diễn tả không gian tồn tại mang sắc thái vũ trụ, vừa để diễn tả một ý niệm cụ thể là đất nước. Khi nói đến “giang sơn”, thường có một sự liên tưởng đến bộ ba khái niệm “thiên, địa, nhân” (trời, đất, người), tức là thuyết “tam tài”, diễn tả ý niệm về tầm quan trọng của con người trong vũ trụ. Con người sánh ngang với trời đất, có trách nhiệm to lớn đối với thế giới.
- Khái niệm khí cũng có sắc thái văn hoá đặc biệt thời trung đại. Đối với người xưa, khí là năng lượng sống, quyết định sức sống của con người. Sức mạnh của con người thể hiện qua khí.
Khí thôn ngưu có hai cách dịch : khí thế nuốt trôi trâu và khí thế át sao Ngưu. Theo các nhà nghiên cứu, ở đây nên hiểu “khí thôn ngưu” là khí thế nuốt trôi trâu. Đỗ Phủ có thơ : “Tiểu nhi ngũ tuế, khí thôn ngưu” (Đứa trẻ năm tuổi đã có khí thế mạnh mẽ có thể nuốt trôi trâu). Nhà thơ Việt Nam Nguyễn Trung Ngạn cũng có câu thơ : “Mậu linh dĩ hữu thôn ngưu chí” (Thuở thiếu niên đã có chí nuốt trôi trâu).
- Nam nhi hay nam tứ hay làm trai là những từ nhà thơ xưa thường dùng để chỉ những người có tài năng, phẩm chất của người anh hùng, có chí lập công danh, sự nghiệp. Đến đầu thế kỉ XX, vẫn có thể bắt gặp khái niệm này "Làm trai phải lạ ở trên đòi" (Phan Bội Châu). “Nam nhi trái” (món nợ của người nam nhi) : Người xưa tin rằng, nam nhi được trời đất cấp cho tài năng và nhân cách đặc biệt nên việc đem thi thố tài năng đó là một bổn phận, một món nợ mà người nam nhi phải trả. Nguyễn Công Trứ (1778 - 1859) có rất nhiều bài thơ nói về chí nam nhi, nợ nam nhi, nợ anh hùng, nợ công danh : "Tang bồng hồ thỉ nam nhi trái" (Cái công danh là cái nợ nần của kẻ nam nhi).
- Vũ hầu : Gia Cát Lượng, một nhân vật thời Tam quốc, được phong tước Vũ Lượng hầu (thường gọi tắt là Vũ hầu). Tại sao tác giả lại nói đến nhân vật này ? Vũ hầu Gia Cát Lượng không phải là một võ tướng mà là một mưu sĩ, quân sư của Lưu Bị. Phạm Ngũ Lão khi nói đến Vũ hầu có thể ông đã nghĩ đến tầm vóc của một vị lãnh đạo, một người có trí tuệ để dẫn dắt ba quân có khí thế hùng mạnh “nuốt trôi trâu” đó. Chi tiết này chứng tỏ khát vọng của tác giả muốn trở thành một người trí dũng song toàn, kết họp hài hoà sức mạnh và trí tuệ. Vậy có thể nói, hai câu 3 và 4 bổ trợ cho nhau về nghĩa.
b) Hình tượng tác giả
Đặc điểm của thơ trung đại là thường tỉnh lược chủ ngữ, nên về hình thức, khó kết luận ai là chủ thể của hành động trong bài thơ (Ai cầm ngang ngọn giáo ? Nam nhi là ai ? Ai thẹn ?). Nhưng có thể hiểu nhân vật trữ tình ở đây là chính tác giả. Cách viết tỉnh lược chủ ngữ có hiệu quả là các cảm nghĩ, suy tư mang tính tập thể, tính cộng đồng cao.
"Cái tôi" tác giả hiện lên qua hai hình tượng chính. Thứ nhất là hình tượng người nam nhi hiện ra dưới dạng hồi tưởng (hiểu là đã từng như thế) : cầm ngang ngọn giáo trấn giữ non sông trong khí thế dũng mãnh của ba quân. Đó là hình tượng một người chiến binh có tầm vóc vũ trụ. Hình tượng thứ hai là dáng vẻ trầm tư suy nghĩ về nợ công danh, về một hình mẫu nam nhi lí tưởng như Vũ hầu. Hai hình tượng này kết họp lại sẻ cho ta một nhân vật anh hùng tiêu biểu của thời Trần : đã cống hiến tài năng, sức lực cho đất nước nhưng vẫn cảm thấy chưa đủ, vẫn khát khao cống hiến nhiều hơn, trở thành người trí dũng song toàn. Hình tượng "cái tôi" thứ nhất gợi không khí hào hùng, âm vang, hình tượng "cái tôi" thứ hai lại trầm lắng, đầy chất suy tư. Tác giả không thoả mãn với chính mình. Đó có thể là bài học sâu sắc nhất qua bài thơ.
2. Đặc điểm về nghệ thuật
a) Kết cấu của bài thơ
Bài thơ này có hai phần rõ rệt, theo nguyên tắc “tức cảnh sinh tình” (lòng tiếp xúc với cảnh mà cảm xúc, suy nghĩ nảy sinh). Phần thứ nhất gồm hai câu thơ đầu:
Hoàng sóc giang sơn kháp kỉ thu,
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu.
(Cầm ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu,
Ba quân như hổ báo, khí thế hùng dũng nuốt trôi trâu.)
Tác giả hồi tưởng lại cảnh tượng bản thân mình cầm ngang ngọn giáo bảo vệ giang sơn và khí thế hừng hực của các binh sĩ (ba quân) trong những năm chống quân Mông - Nguyên xâm lược. Hai câu thơ phác hoạ một cách súc tích toàn cảnh con người và đất nước ta thế kỉ XIII, thòi kì có những chiến công hiển hách.
Phần thứ hai (hai câu còn lại):
Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu.
(Thân nam nhi mà chưa trả xong nợ công danh,
Thì luống thẹn thùng khi nghe người đời kể chuyện Vũ hầu.)
Là những suy nghĩ sâu lắng, riêng tư của tác giả khi mường tượng lại các cảnh tượng đó. Trước hết là suy nghĩ về việc bản thân chưa trang trải trọn vẹn món nợ công danh, tức là chưa thể hiện trọn vẹn khát vọng và lí tưởng làm trai. Có thể đây chỉ là cách nói khiêm tốn mà cũng có thể là khao khát muốn đạt tới tầm vóc của bậc tướng có trí tuệ và kiến thức uyên bác như Vũ hầu Gia Cát Lượng.
Bài thơ triển khai “tứ” bằng cách đi từ hiện thực, chọn những sự kiện, cảnh tượng có thực, tiêu biểu để khéo léo dẫn dắt đến chỗ bộc lộ những suy nghĩ, cảm xúc nội tâm sâu kín.
b) Ngôn ngữ
Bản dịch đã cố gắng truyền đạt nghĩa của bài thơ nhưng chưa thể lột tả hết thần thái của các từ ngữ, các câu thơ. Chú ý nghĩa của một số từ ngữ ở bản dịch thơ chưa nói hết ý của từ ngữ nguyên vần chữ Hán. Đối chiếu bản dịch để thấy từ ngữ trong bản dịch thơ chỉ truyền đạt phần nào nội dung của nguyên tác. “Hoành sóc” nghĩa là cầm ngang ngọn giáo mà dịch là “múa giáo” chưa lột tả hết tính chất hoành tráng cửa hình tượng người dũng sĩ. “Nam nhi vị liễu công danh trái” dịch là “Công danh nam tử còn vương nợ’ thì chữ “còn vương” cũng chưa thật đúng với ý chữ “vị liễu” trong nguyên tác. “Vị liễu” là chưa làm xong, chưa thực hiện trọn vẹn nợ công danh. Trong khi đó “vương nợ” là bị ràng buộc bởi món nợ công danh, lí tưởng lập công danh ở đây có sắc thái bị động. Tất nhiên mục đích so sánh là để hiểu sâu sắc hơn ý nghĩa của toàn bài thơ. Dịch một bài thơ cổ với những từ ngữ hết sức hàm súc vốn là một công việc khó khăn.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
Nga
11/04/2021 14:48:55
+4đ tặng

Phạm Ngũ Lão là một danh tướng đời Trần. Tuy xuất thân từ tầng lớp bình dân song chí lớn tài cao nên ông nhanh chóng trở thành tùy tướng số một bên cạnh Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Trong cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên xâm lược, Phạm Ngũ Lão cùng những tên tuổi lớn khác của triều đình đã lập nên nhiều chiến công hiển hách, góp phần quan trọng tạo nên hào khí Đông A của thời đại đó.

Ông sáng tác không nhiều nhưng Thuật hoài là một bài thơ nổi tiếng, được lưu truyền rộng rãi vì nó bày tỏ khát vọng mãnh liệt của tuổi trẻ trong xã hội phong kiến đương thời: làm trai phải trả cho xong món nợ công danh, có nghĩa là phải thực hiện đến cùng lí tưởng trung quân, ái quốc.

Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu

Dịch thơ tiếng Việt:

Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu
Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.

Bài thơ được sáng tác trong bối cảnh đặc biệt có một không hai của lịch sử nước nhà. Triều đại nhà Trần (1226 – 14001) là một triều đại lẫy lừng với bao nhiêu chiến công vinh quang, mấy lần quét sạch quân xâm lược Mông - Nguyên hung tàn ra khỏi bờ cõi, giữ vững sơn hà xã tắc, nêu cao truyền thống bất khuất của dân tộc Việt.

Phạm Ngũ Lão sinh ra và lớn lên trong thời đại ấy nên ông sớm thấm nhuần lòng yêu nước, tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc và nhất là lí tưởng sống của đạo Nho là trung quân, ái quốc. Ông ý thức rất rõ ràng về trách nhiệm công dân trước vận mệnh của đất nước: Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách.

Bài thơ Thuật hoài (Tỏ lòng) được làm bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt luật Đường, niêm luật chặt chẽ, ý tứ hàm súc, hình tượng kì vĩ, âm điệu hào hùng, sảng khoái. Hai câu thơ đầu khắc họa vẻ đẹp gân guốc, lẫm liệt, tràn đầy sức sống của những trang nam nhi - chiến binh quả cảm đang xả thân vì nước, qua đó thể hiện hào khí Đông A ngút trời của quân đội nhà Trần thời ấy.

Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu (Dịch nghĩa: cầm ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu); dịch thơ: Múa giáo non sông trải mấy thu. So với nguyên văn chữ Hán thì câu thơ dịch chưa lột tả được hết chất oai phong, kiêu hùng trong tư thế của người lính đang chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Hoành sóc là cầm ngang ngọn giáo, luôn ở tư thế tấn công dũng mãnh, áp đảo quân thù. Tư thế của những người chính nghĩa lồng lộng in hình trong không gian rộng lớn là giang sơn đất nước trong suốt, một thời gian dài (giang sơn kháp kỉ thu). Có thể nói đây là hình tượng chủ đạo, tượng trưng cho dân tộc Việt quật cường, không một kẻ thù nào khuất phục được. Từ hình tượng ấy, ánh hào quang của chủ nghĩa yêu nước ngời tỏa sáng.

Câu thơ thứ hai: Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu. (Dịch nghĩa: khí thế của ba quân mạnh như hổ báo, át cả sao Ngưu trên trời). Dịch thơ: Ba quân hùng khí át sao Ngưu, đặc tả khí thế chiến đấu và chiến thắng không gì ngăn cản nổi của quân dân ta. Tam quân tì hổ là một ẩn dụ so sánh nghệ thuật nêu bật sức mạnh vô địch của quân ta. Khí thôn Ngưu là cách nói thậm xưng để tạo nên một hình tượng thơ kì vĩ mang tầm vũ trụ.

Hai câu tứ tuyệt chỉ mười bốn chữ ngắn gọn, cô đúc nhưng đã tạc vào thời gian một bức tượng đài tuyệt đẹp về người lính quả cảm trong đạo quân Sát Thát nổi tiếng đời Trần.

Là một thành viên của đạo quân anh hùng ấy, Phạm Ngũ Lão từ một chiến binh dày dạn đã trở thành một danh tướng khi tuổi còn rất trẻ. Trong con người ông luôn sôi sục khát vọng công danh của đấng nam nhi thời loạn. Mặt tích cực của khát vọng công danh ấy chính là ý muốn được chiến đấu, cống hiến đời mình cho vua, cho nước. Như bao kẻ sĩ cùng thời, Phạm Ngũ Lão tôn thờ lí tưởng trung quân, ái quốc và quan niệm: Làm trai đứng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông (Chí làm trai - Nguyễn Công Trứ). Bởi thế cho nên khi chưa trả hết nợ công danh thì tự lấy làm hổ thẹn:

"Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu

(Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu).

Vũ Hầu tức Khổng Minh, một quân sư tài ba của Lưu Bị thời Tam Quốc. Nhờ mưu trí cao, Khổng Minh đã lập được công lớn, nhiều phen làm cho đôi phương khốn đốn; vì thế ông rất được Lưu Bị tin yêu.

Lấy gương sáng trong lịch sử cổ kim soi mình vào đó mà so sánh, phấn đấu vươn lên cho bằng người, đó là lòng tự ái, lòng tự trọng đáng quý cần phải có ở một đấng nam nhi. Là một tùy tướng thân cận của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, Phạm Ngũ Lão luôn sát cánh bên cạnh chủ tướng, chấp nhận xông pha nơi làn tên mũi đạn, làm gương cho ba quân tướng sĩ, dồn hết tài năng, tâm huyết để tìm ra cách đánh thần kì nhất nhằm quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi. Suy nghĩ của Phạm Ngũ Lão rất cụ thể và thiết thực; một ngày còn bóng quân thù là nợ công danh của tuổi trẻ với giang sơn xã tắc vẫn còn vương, chưa trả hết. Mà như vậy là phận sự với vua, với nước chưa tròn, khát vọng công danh chưa thỏa. Cách nghĩ, cách sống của Phạm Ngũ Lão rất tích cực, tiến bộ. ông muốn sống xứng đáng với thời đại anh hùng.

Hai câu thơ sau âm hưởng khác hẳn hai câu thơ trước. Cảm xúc hào sảng ban đầu dần chuyển sang trữ tình, sâu lắng, như lời mình nói với mình cho nền âm hưởng trở nên thâm trầm, da diết.

Phạm Ngũ Lão là một võ tướng tài ba nhưng lại có một trái tim nhạy cảm của một thi nhân. Thuật hoài là bài thơ trữ tình bày tỏ được hùng tâm tráng trí và hoài bão lớn lao của tuổi trẻ đương thời. Bài thơ có tác dụng giáo dục rất sâu sắc về nhân sinh quan và lối sống tích cực đối với thanh niên mọi thời đại Thuật hoài đã làm vinh danh vị tướng trẻ văn võ song toàn Phạm Ngũ Lão.

1
0
Ni Lin
20/04/2021 20:41:46
+3đ tặng

Đã từng một thời, văn học Việt Nam được biết tới như những con thuyền chở đầy ý chí và khát vọng cao đẹp của người đương thời, đó là những áng thi ca trung đại đầy hào sảng, hùng tráng. Bởi vậy chăng mà cứ mỗi lần từng tiếng thơ “Thuật hoài” (Tỏ lòng - Phạm Ngũ Lão) vang lên, hiện lên trước mắt ta luôn là hình ảnh người tráng sĩ thời đại Lý – Trần với hùng tâm tráng chí sôi nổi, như những bức tượng đài đẹp nhất đại diện cho cả một thời đại đầy rực rỡ của phong kiến Việt Nam: thời đại Đông A.

Là một vị tướng tài ba từng gắn bó sâu sắc với triều đại nhà Trần, Phạm Ngũ Lão hiểu rõ hơn ai hết tấm lòng thiết tha với non sông và khao khát giữ vững độc lập chủ quyền nước nhà của tướng quân và nhân dân. Trong hoàn cảnh cả dân tộc đang dốc sức thực hiện kháng chiến chống Mông – Nguyên lần hai, cần có một liều thuốc tinh thần tiếp thêm sức mạnh để quân dân từng ngày cố gắng hơn nữa trong sự nghiệp bảo vệ đất nước; “Thuật hoài” ra đời cũng vì lẽ đó. Đặt trong một hoàn cảnh đặc biệt, được viết dưới ngòi bút của con người có tầm vóc lớn lao, bài thơ dù chỉ là một trong hai tác phẩm của Phạm Ngũ Lão còn lưu lại, song cũng đủ để ghi danh tác giả cho tới tận muôn đời.

Hai câu thơ đầu là những nét phác họa đầu tiên về chân dung người tráng sĩ Đông A:

Hoàng sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu

(Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu)

Bằng lối vào đề trực tiếp, trong câu thơ đầu tiên, tác giả đã dựng lên hình ảnh người tráng sĩ thời Trần mang vẻ đẹp của con người thời đại: cầm ngang ngọn giáo trấn giữ non sông. Chỉ qua một hành động “hoành sóc”, người tráng sĩ hiện lên với tư thế đầy oai hùng và kiên cường, ngay thẳng, vững vàng. Sừng sững như một bức tượng đài đầy hiên ngang giữa không gian rộng lớn của “giang sơn” và dòng thời gian dài trôi chảy “kháp kỉ thu”, người ấy mang vẻ đẹp của những đấng anh hùng từng trải, với kinh nghiệm già dặn đã được tôi luyện mỗi ngày. Vận mệnh và sự bình yên của đất nước đang được đặt trên đầu ngọn giáo kia, đó là trọng trách lớn lao đặt lên vai người tráng sĩ, nhưng cũng chính ngọn giáo ấy là điểm tựa vững vàng che chắn cho cả dân tộc tồn tại. Câu thơ tỉnh lược chủ ngữ ngắn gọn mang ngụ ý của tác giả: đó không chỉ là một hình ảnh duy nhất của một con người duy nhất, mà là tầm vóc hào sảng của biết bao con người thời đại, là không khí sôi sục của đất trời Đông A.

Chưa một thời đại nào trong lịch sử dân tộc, tầm vóc của con người lại trở nên lớn lao đến vậy, với khí thế hùng tráng: “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”. Cách nói ẩn dụ ước lệ quen thuộc trong thi pháp thơ ca trung đại với phép phóng đại “tam quân tì hổ" cho người đọc ấn tượng mạnh mẽ về đội quân “sát thát” của nhà Trần, với khí thế dũng mãnh, kiên cường. Cụm từ "khí thôn ngưu” có thể hiểu là khí thế của đội quân ra trận với sức mạnh phi thường đến mức có thể “nuốt trôi trâu”, cũng có thể hiểu khí thế ấy sôi sục tới độ át cả sao ngưu, sao mai. Trong cách nói cường điệu, ta thấy được tình cảm tự hào của nhà thơ khi đã nâng tầm vóc của quân dân nhà Trần có thể sánh ngang với thiên nhiên, vũ trụ bao la. Đó là niềm tự hào của một con người được sinh ra trong một đất nước, một thời đại hùng mạnh, đầy phấn chấn, tự tin, luôn khao khát vươn lên, giữ vững chủ quyền cho nước nhà. Từ hình ảnh người tráng sĩ hiên ngang tới tầm vóc lớn lao của ba quân thời đại, rõ ràng, vẻ đẹp người tráng sĩ ấy là kết tinh của vẻ đẹp dân tộc, và vẻ đẹp dân tộc càng tôn vinh thêm vẻ đẹp hùng sảng của những tráng sĩ thời Trần. Hai câu thơ đầu tiên vang lên, Phạm Ngũ Lão không chỉ cho ta chiêm ngưỡng vẻ đẹp của một vị anh hùng thời đại, mà là vẻ đẹp muôn thuở của một dân tộc anh hùng.

Từ tư thế hiên ngang dũng mãnh, nhà thơ giúp người đọc đi sâu hơn để khám phá tâm thế vững vàng với hùng tâm tráng chí bên trong những tráng sĩ:

Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu

Với người quân tử trong xã hội phong kiến đương thời, chí làm trai là phẩm chất không thể thiếu. Ta từng nhớ đã đọc những câu thơ nhắc đến món nợ công danh của các đấng nam nhi:

Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao

(Đoàn Thị Điểm)

Hay:

Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo

(Nguyễn Công Trứ)

Đối với những người tráng sĩ “bình Nguyên” thuở ấy, trong hoàn cảnh đất nước đang bị lăm le xâm chiếm bởi giặc ngoại bang, “nợ công danh” mà họ phải trả, đó là làm sao để bảo vệ trọn vẹn đất nước, để có thể đem lại yên ấm cho muôn dân. Nói khác đi, hùng tâm tráng chí trong lòng người tráng sĩ chính là niềm yêu nước thiết tha sâu nặng, là tiếng nói khát khao đánh giặc cứu lấy non sông. Điều đặc biệt là trong từng câu chữ của “Tỏ lòng”, tinh thần bất khuất ấy không được nêu lên một cách giáo điều, khô cứng, mà nó như được tỏa ra từ chính trái tim, thốt lên từ tâm can của một con người với khát vọng đang sôi cháy, rực lửa.

Để rồi, nợ công danh chưa trả hết, và người đời lại “luống thẹn” khi nghe chuyện Vũ Hầu xưa: “Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”. Câu thơ gợi lại một câu chuyện cổ về bậc anh tài Gia Cát Lượng từng giúp hình thành thế chân vạc Tam Quốc, giúp Thục – Ngô chống Tào… Người tướng sĩ thấy hổ thẹn bởi công lao của mình vẫn chưa đáng bao nhiêu so với Tôn Tử, song đó lại là cái thẹn cao cả, là cái thẹn lớn lao, đáng trân trọng của một bậc đại trượng phu. Ngũ Lão từng là một trong những vị tướng tài ba nhất của nhà Trần, làm tới chức Điện súy thượng tướng quân, vậy còn điều gì khiến người còng hổ thẹn? Rằng, đó không chỉ là nỗi thẹn, mà là niềm khao khát vươn tới những đỉnh cao, vươn tới những tầm vóc rộng lớn hơn nữa. Có những cái thẹn khiến người ta trở nên bé nhỏ, có những cái thẹn khiến cho người ta khinh, nhưng cũng có những cái thẹn cho người ta thấy được cả một tầm vóc lớn lao và ý chí mãnh liệt; cái thẹn của người tráng sĩ thời Trần là cái thẹn như thế.

“Thuật hoài” lấy tiêu đề dựa theo một mô-típ quen thuộc trong văn học trung đại, bên cạnh “Cảm hoài” của Đặng Dung, hay “Tự tình” của Hồ Xuân Hương,… những bài thơ bày tỏ nỗi lòng của người viết. Với “Tỏ lòng”, đây là lời tâm sự bày tỏ tâm tư, ý chí của Phạm Ngũ Lão, cũng là của những tráng sĩ thời Trần mà tâm can đều dành trọn cho dân tộc. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, chỉ với một số lượng ngôn từ ít ỏi, song lại đạt được tới sự hàm súc cao độ khi đã dựng lên được những bức chân dung con người và hào khí Đông A với vẻ đẹp hào sảng, khí thế, dũng mãnh.

Cùng với “Hịch tướng sĩ” – Trần Quốc Tuấn, “Bạch Đằng giang phú” - Trương Hán Siêu,… “Thuật hoài” mãi là khúc tráng ca hào hùng ngợi ca vẻ đẹp con người và thời đại, và sẽ tồn tại mãi cùng với dòng trôi chảy của thời gian…

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan
Bài tập Ngữ văn Lớp 10 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư