Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phân tích bài thơ Thiên Trường vãn vọng của Trần Nhân Tông

phân tích bài thơ Thiên Trường vãn vọng của Trần Nhân Tông
1 trả lời
Hỏi chi tiết
19
Tham khảo câu trả lời từ Trợ lý ảo Lazi
Bài thơ "Thiên Trường vãn vọng" của Trần Nhân Tông là một tác phẩm tiêu biểu, thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa sự trầm tư, suy ngẫm về cuộc đời và thiên nhiên, cùng với những nỗi niềm trước sự hữu hạn của kiếp người. Dưới đây là một số điểm phân tích nổi bật về bài thơ:

### 1. Bối cảnh sáng tác
Trần Nhân Tông (1258-1308) không chỉ là một nhà vua mà còn là một thiền sư nổi tiếng. Ông đã có những đóng góp to lớn cho đất nước trong cuộc chiến chống ngoại xâm và cũng là người sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm. Bài thơ được sáng tác trong bối cảnh ông đã rời bỏ ngai vàng để xuất gia tu hành, phản ánh tâm tư của một vị vua đã từ bỏ quyền lực, về với cuộc sống thanh tịnh của một thiền sư.

### 2. Nội dung bài thơ
Bài thơ thể hiện những suy tư và nỗi niềm của tác giả về sự trôi chảy của thời gian và sự mong manh của kiếp người. Trên nền cảnh thiên nhiên rộng lớn, ông như thu nhỏ lại cuộc đời mình trong những cảm xúc sâu lắng.

### 3. Nghệ thuật trong bài thơ
- **Ngôn ngữ thi vị**: Trần Nhân Tông sử dụng ngôn ngữ cô đọng, giàu hình ảnh và âm điệu. Các hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ được miêu tả sinh động, tạo nên khung cảnh vừa hùng vĩ, vừa tĩnh lặng, thể hiện sự hòa quyện giữa con người và thiên nhiên.
- **Tâm trạng nhân vật trữ tình**: Những suy tư, trăn trở về cuộc đời, sự vô thường được diễn đạt một cách tinh tế, mang lại cho người đọc cảm giác sâu lắng và đồng cảm.

### 4. Tư tưởng và triết lý sống
Bài thơ còn chứa đựng tư tưởng Phật giáo và triết lý sống của Trần Nhân Tông, khi ông nhấn mạnh, cuộc sống hiện tại chỉ là tạm bợ, mọi điều đều có sự biến đổi. Câu chuyện của kiếp người, từ sự sinh ra cho đến cái chết, chỉ là một vòng xoay của sinh và diệt.

### 5. Kết luận
"Thiên Trường vãn vọng" không chỉ là một bài thơ hay mà còn là minh chứng cho tài năng của Trần Nhân Tông như một thi sĩ và một tư tưởng gia. Bài thơ cho thấy vẻ đẹp trong tâm hồn ông, cũng như những suy tư sâu sắc về nhân sinh, góp phần làm phong phú thêm nền văn học Việt Nam thời kỳ nhà Trần.

Tóm lại, "Thiên Trường vãn vọng" là một tác phẩm có giá trị nghệ thuật và tư tưởng sâu sắc, phản ánh tâm hồn của một con người đã trải qua nhiều thăng trầm của cuộc đời, tìm thấy bình yên trong thiên nhiên và triết lý nhân sinh.
0
0
Nguyễn Dũng
3 giờ trước
+5đ tặng

Trần Nhân Tông (1258 - 1308) là ông vua anh hùng - thi sĩ của Đại Việt trong thế kỷ XIII. Thông minh, học rộng, có tài thao lược và rất tài hoa.

Tên tuổi nhà thơ gắn liền với những chiến công hiển hách của nhân dân trong hai cuộc kháng chiến lần thứ hai và lần thứ ba đánh thắng giặc Nguyên - Mông xâm lược.

Trong một số bài thơ chữ Hán của Trần Nhân Tông để lại có hai bài viết về Thiên Trường, mảnh đất "phát nghiệp đế vương" của nhà Trần: “Hạnh Thiên Trường hành cung" và "Thiên Trường vãn vọng".

Thiên Trường là một trong 12 lộ thời Trần, thuộc Sơn Nam; nay thuộc thành Nam Định. Thiên Trường vốn là Thái ấp của vua chúa nhà Trần, ở đây xưa không có nhiều cung điện nguy nga tráng lệ.

"Thiên Trường vãn vọng" được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật (luật trắc, vần bằng). Bài thơ gợi tả cảnh xóm thôn, đồng quê vùng Thiên Trường qua cái nhìn và cảm xúc của Trần Nhân Tông, cảm xúc lắng đọng, cái nhìn man mác, bâng khuâng ôm trùm cảnh vật:

"Thôn hậu, thôn tiền, đạm tự yên,
Bán vô, bán hữu, tịch dương biên.
Mục đồng địch lí ngưu quy tận,
Bạch lộ song song phi hạ điền"

Hơn 60 năm về trước, cụ Ngô Tất Tố đã dịch rất hay bài thơ này.

Hai câu thơ đầu gợi tả cảnh làng quê vùng Thiên Trường trong ánh chiều tàn. Bốn chữ "thôn Hậu thôn tiền" và "bán vô bán hữu" liên kết đôi, tạo nên sự cân xứng hài hòa về ngôn ngữ đã gợi lên cảnh xóm thôn nối tiếp gần xa, đông đúc, trù phú. Trong bóng chiều nhạt nhòa, xóm thôn "trước xóm sau thôn" phủ mờ khói như càng trở nên mơ màng, mênh mang. Khói của sương chiều. Khói lam chiều vấn vương, nhẹ bay trên những mái nhà gianh sau lũy tre làng.

Chỉ bằng 3 nét vẽ rất chọn lọc, lối tả ít mà gợi nhiều của thi pháp cổ, thi sĩ đã làm hiện lên một không gian nghệ thuật về cảnh sắc làng quê một buổi chiều tàn phủ mờ sương khói và ánh tà dương nơi yên bình, êm đềm, nên thơ. Nét vẽ thanh nhẹ. Cảnh vật bao la, tĩnh lặng. Ngoại cảnh và tâm cảnh đồng hiện. Tưởng như thi sĩ đang thả hồn mình vào cảnh vật, lặng ngắm thôn xóm quê hương gần xa không chán. So sánh "đạm tự yên" (mờ nhạt như không là một hình tượng đầy thi vị. Cả một hồn quê man mác gợi cảm):

"Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,
Bán vô, bán hữu tịch dương biên

(Trước xóm sau thôn tựa khói lồng,
Bóng chiều man mác có dường không).

Hai câu cuối là cảnh sắc đồng quê rất dân dã, bình dị, thân thuộc mà đáng yêu. Trên những nẻo đường quê, đàn trâu nối đuôi nhau về thôn. Có âm thanh tiếng sáo mục đồng cất lên, âm thanh réo rắt, hồn nhiên, thanh bình của làng quê ta xưa nay. Có từng đôi, từng đôi cò trắng bay liệng, nối tiếp nhau hạ xuống đồng. Nhà thơ không nói đến màu xanh và hương lúa mà người đọc vẫn cảm nhận được. Ngôn ngữ thơ, hình tượng thơ đầy gợi thanh và màu sắc, thanh tao và dào dạt sức sống. Bút pháp điểm nhãn, lấy động để tả tĩnh của tác giả được thể hiện một cách nhiều ấn tượng về bức tranh đồng quê này:

"Mục đồng địch lí ngưu quy tận"
Bạch lộ song song phi hạ điền

(Mục đồng sáo vẳng trâu về hết
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng).

Tình quê và hồn quê chan hòa, dào dạt. Thiên Trường thuở ấy, đường sá rầm rập ngựa xe, có biết bao cung điện của vua chúa, tôn thất nhà Trần, nhưng Trần Nhân Tông không nói đến lầu son gác tía, bệ ngọc ngai vàng tráng lệ nguy nga, mà chỉ nói đến cảnh sắc thiên nhiên, cảnh vật đồng quê. Điều đó cho thấy tâm hồn thi sĩ giàu tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước. Tính bình dị, dân dã, hồn nhiên là cốt cách, là hồn thơ của ông vua anh hùng - thi sĩ này. Cảm nhận ấy càng rõ khi ta đọc bài thơ "Hạnh Thiên Trường hành cung" (Ngự chơi hành cung Thiên Trường):

"Cảnh thanh u, vật cũng thanh u,
Mười mấy châu tiên ấy một châu.
Trăm tiếng đàn chim, dàn nhạc hát,
Nghìn hàng đám quýt, đám quân hầu.
Trăng vô sự chiếu người vô sự,
Nước có thu lồng Trời có thu.
Vừa bốn bể trong, vừa bụi lặng,
Độ xưa so với độ này thua"

Cảnh buổi chiều được nói đến trong bài ''Hạnh Thiên Trường hành cung" là cảnh chiều thu, đó là điều ai cũng rõ. Trong bài "Thiên Trường vãn vọng" là cảnh chiều xuân hay chiều thu? Rất khó xác định. Ta chỉ cảm nhận được đó là một buổi chiều êm đềm, xóm thôn phủ mờ sương khói tà dương. Không gian nghệ thuật và tâm trạng nghệ thuật đồng hiện cho ta khẳng định: Trần Nhân Tông viết "Thiên Trường vãn vọng" sau năm 1288, khi giặc Nguyên - Mông đã bị nhân dân ta đánh bại, nước Đại Việt thanh bình, yên vui.

Bài tứ tuyệt "Thiên Trường vãn vọng" là một bức tranh quê đậm nhạt, mờ sáng, rất đẹp và tràn đầy sức sống. Một bút pháp nghệ thuật cổ điển tài hoa. Một tâm hồn thanh cao, yêu đời. Tình yêu thiên nhiên, yêu đồng quê xứ sở đã được thể hiện bằng một số hình tượng đậm đà, ấm áp qua những nét vẽ tinh tế, gợi hình, gợi cảm, giàu liên tưởng. Kì diệu thay, bài thơ đã vượt qua một hành trình trên bảy trăm năm, đọc lên, nó vẫn cho ta nhiều thú vị. Ta vẫn cảm thấy cánh cò trắng được nói đến trong bài thơ vẫn còn bay trong ráng chiều đồng quê, và còn chấp chới trong hồn ta. Thơ đích thực là thế! đủ hết ý nha bn vì mik đang học lớp 8 nha ko cần lo đâu :)

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo