Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Văn bản Chuyện con chó có nghĩa của một nhà nghèo được kể lại từ ngôi thứ mấy? Chỉ ra lời của nhân vật,lời của người kể chuyện trong câu văn sau?

(Lược một đoạn: Đào Cảnh Long, hiệu là Vân Hiên cư sĩ, là một học trò nghèo sống vào cuối đời Lê Chiêu Thống, đức độ rộng rãi, tính tình chất phác, trọng danh nghĩa, chuộng khí khái. Năm Bính Thìn, vì nhà thiếu ăn, chàng phải đi dạy học thuê cho một nhà giàu).
   Ở chỗ dạy học, anh có nuôi một con chó già, sớm hôm chơi đùa với nó. Anh đi đâu, nó cũng đi theo. Anh ngồi đâu, nó cũng đứng chầu bên cạnh. Anh đặt tên nó là Hàn Lư. Anh thường đùa với nó:
– Mày được ta chăm nuôi, mày có chịu dốc sức liều chết vì ta không? Con vật gật đầu, nghoe nguẩy đuôi như tỏ ý nhận lời.
Mấy tháng sau, anh có việc phải trở về quê hương. Con chó phải ở lại. Nó quanh quẩn ra vào ở cửa phòng học. Ban ngày xua đuổi gà lợn, ban đêm phòng giữ kẻ gian. Nhiều khi bọn trẻ lãng quên, không cho ăn, tiếng sủa của con chó không còn được sang sảng nữa.
Bấy giờ, trong làng có một phú ông họ Trương thấy vậy, thương hại, đem cơm đến cho ăn. Vừa bước vào cửa phòng học, liền bị con chó cắn phải. Ông trách mắng:
– Hàn Lư! Hàn Lư! Vì thương mày đói lâu nay, nên ta đến đưa cơm cho mày ăn. Ta đâu phải là kẻ bất nhân! Mày tuy là giống vật, nhưng cũng biết suy nghĩ chút ít. Sao mày lại lấy oán trả ân?
Ông chưa dứt lời, con vật chồm lên, nhe răng, giơ vuốt, nói bằng tiếng người:
– Ngày chủ tôi đi có căn dặn tôi phải bảo vệ phòng học, trông nom bọn trẻ. Ngăn chặn kẻ ác, cấm đoán kẻ gian là trách nhiệm của tôi. Ông tới đột ngột, lại không có chủ tôi đón tiếp, thì bị cắn một miếng là đúng lẽ thôi! Thế mà còn trách mắng nặng lời gì nữa!
Thấy con chó biết nói tiếng người, lại nói đúng lẽ, phú ông thầm nghĩ trong bụng nó là con vật kì lạ, ý muốn dụ dỗ, bèn nói:
– Ông chủ của mày bản chất là thầy đồ nghèo. Mình hắn chẳng đủ miếng ăn, lấy đâu ra dành cho mày nữa. Bây giờ chi bằng mày bỏ chỗ tối, tới chỗ sáng, bỏ nhà nghèo, tới nhà giàu, tìm nơi no đủ, sung sướng suốt đời, có phải hơn không? Tội gì mà phải chịu khổ mãi?
Con chó nói:
– Ôi! Ông cũng là người, sao nỡ mở miệng buông lời như thế. Kẻ sĩ trung nghĩa, không vì cùng hay thông mà thay đổi ý chí, cho nên đến mùa rét mới biết rõ bách tùng tươi tốt hơn các cây khác, gặp gió mạnh mới hay cây đứng được vững chắc. Giống súc vật tuy khác với loài người, song vẫn có tính trời phú, biết giữ vững khí tiết đối với chủ của mình. Huống hồ ông chủ của tôi lại là một người luôn biết giữ lòng chân chính, sống nghề quang minh, trung để thờ vua, tín để kết bạn, hiếu với cha mẹ, hòa thuận họ hàng, trời sắp giao cho trách nhiệm quan trọng, cho nên bắt phải cùng khổ thiếu thốn, để trau dồi cho được thành công tốt đẹp đó thôi! Ông nói năng lung tung chẳng đúng gì, nên tôi tha thứ cho. Nếu không miệng này sẽ cắn cho một miếng nữa, chẳng ngần ngại gì! Hãy mau mau lui về, chớ để sau phải hối tiếc!
Phú ông nghe xong, sửng sốt ngây dại, hiểu rõ con vật có nghĩa, không thể giành giật được, đành mang cơm ra về.
Vài hôm sau, Đào Cảnh Long trở về, con chó mừng rỡ ra cửa đón tiếp, hình dáng tiều tụy khôn xiết. Nghe xóm giềng kể lại câu chuyện, Đào Cảnh Long cảm động lắm, ngậm ngùi lấy làm lạ mãi. Anh kiểm tra lại phòng sách, thì khóa cửa không di chuyển, giường chiếu còn y nguyên, đều là nhờ con chó hết sức canh giữ.
Ôi! Con chó là loài súc vật, mà còn biết giữ lòng tiết nghĩa thờ chủ. Dù dùng lời đường mật dụ dỗ, cũng không thể lay chuyển lòng dạ sắt đá của nó. Huống gì con người ăn lộc nhà vua, nếu giữ vững đầy đủ cái lòng tiết nghĩa ấy để đền ơn nước, xông ra đánh giặc, giặc nào chẳng tan; cố sức giữ thành, thành nào chẳng vững…
Than ôi! Sao mà lòng người chẳng còn được như xưa, thói đời đổi thay nhiều dạng? Lúc nước nhà yên vui thì bợ đỡ cầu vinh, lúc cuộc đời rối ren thì trở mặt đổi giọng, bán nước kiếm ăn, theo thời cầu lợi, không còn chút liêm sỉ, thật là quá quắt!
Vì vậy, tôi cho rằng ở đời nhiều kẻ không bằng con Hàn Lư đấy! Nhân ghi lại mẩu chuyện để răn bảo người đời.
(Chuyện con chó có nghĩa của một nhà nghèo, Phạm Quý Thích, in trong Truyện truyền kì Việt Nam, Vũ Ngọc Khánh – Nguyễn Quang Ân sưu tầm, tuyển chọn, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2023, tr.320 – 332)
 Câu 1: Văn bản Chuyện con chó có nghĩa của một nhà nghèo được kể lại từ ngôi thứ mấy?
 Câu 2: Chỉ ra lời của nhân vật,lời của người kể chuyện trong câu văn sau?
Anh thường đùa với nó:
– Mày được ta chăm nuôi, mày có chịu dốc sức liều chết vì ta không? Con vật gật đầu, nghoe nguẩy đuôi như tỏ ý nhận lời.
Câu 3: Chỉ ra và phân tích tác dụng của yếu tố kì ảo được sử dụng trong truyện Chuyện con chó có nghĩa của một nhà nghèo?
Câu 4: Xác định chủ đề của văn bản Chuyện con chó có nghĩa của một nhà nghèo?
Câu 5: Em rút ra được bài học gì cho bản thân sau khi đọc văn bản Chuyện con chó có nghĩa của một nhà nghèo
II. VIẾT ( 6 ,0 điểm)
Phân tích văn bản: Than nỗi oan (Trích tự tình khúc - Cao Bá Nhạ)
“Đuôi con mắt châu sa thấm giấy
Đầu ngón tay máu chảy pha son
Người đau phong cảnh cũng buồn
Thông gầy như trúc, cúc mòn như mai

Mối tâm sự rối mười phần thảm
Gánh gia tình nặng tám năm dư
Khi ngày mong bức xá thư
Khi đêm than bóng, khi trưa hỏi lòng

Hương thề nguyện khói nồng trước gió
Tờ tố oan mở ngỏ giữa trời
Tờ oan kể hết bao lời
Hương thề sao chửa thấu nơi cửu trùng”
3 Xem trả lời
Hỏi chi tiết
662
Tham khảo câu trả lời từ Trợ lý ảo Lazi
**Câu 1**: Văn bản "Chuyện con chó có nghĩa của một nhà nghèo" được kể lại từ ngôi thứ ba.

**Câu 2**:
- **Lời của nhân vật**: “Mày được ta chăm nuôi, mày có chịu dốc sức liều chết vì ta không?” (được nói bởi nhân vật Đào Cảnh Long).
- **Lời của người kể chuyện**: “Con vật gật đầu, nghoe nguẩy đuôi như tỏ ý nhận lời.” (được viết bởi người kể chuyện).

**Câu 3**:
Yếu tố kì ảo trong truyện "Chuyện con chó có nghĩa của một nhà nghèo" xuất hiện khi con chó Hàn Lư không chỉ biết nói mà còn có thể phát biểu một cách rất hợp lý, thể hiện tư tưởng trung thành, nghĩa khí. Tác dụng của yếu tố kì ảo này không chỉ làm tăng tính hấp dẫn của câu chuyện mà còn làm nổi bật thông điệp về lòng trung thành, nghĩa khí, và sự trân trọng đối với những giá trị đạo đức trong thời đại mà con người dễ dàng thay lòng đổi dạ. Qua đó, tác giả muốn khẳng định rằng ngay cả những sinh vật bé nhỏ cũng có thể giữ vững nguyên tắc, và từ đó, người đọc sẽ tự suy ngẫm về những giá trị nhân văn trong cuộc sống của chính mình.

**Câu 4**: Chủ đề của văn bản "Chuyện con chó có nghĩa của một nhà nghèo" xoay quanh lòng trung thành và khí tiết của con vật đối với chủ nhân của nó, từ đó khắc họa sự quý trọng các giá trị đạo đức tốt đẹp trong xã hội. Truyền tải thông điệp về lòng trung thành, danh dự, và sự vững vàng trước cám dỗ vật chất.

**Câu 5**: Bài học mà em rút ra được từ văn bản "Chuyện con chó có nghĩa của một nhà nghèo" là cần phải luôn giữ vững lòng trung thành, nghĩa khí và trân trọng các giá trị đạo đức trong cuộc sống. Dù có gặp phải hoàn cảnh khó khăn, nhưng nếu chúng ta sống vô tư, chân chính và có trách nhiệm với người khác, thì sẽ luôn được ghi nhớ và trân trọng.
1
0
hải đăng đặng
02/11 21:42:12
+5đ tặng
Câu 1:

Văn bản "Chuyện con chó có nghĩa của một nhà nghèo" được kể lại từ ngôi thứ mấy?

Văn bản này được kể lại từ ngôi thứ ba. Người kể không trực tiếp tham gia vào câu chuyện mà chỉ kể lại những gì xảy ra với nhân vật Đào Cảnh Long và con chó Hàn Lư.


Câu 2:

Chỉ ra lời của nhân vật, lời của người kể chuyện trong câu văn sau:

Anh thường đùa với nó:
– Mày được ta chăm nuôi, mày có chịu dốc sức liều chết vì ta không? Con vật gật đầu, nghoe nguẩy đuôi như tỏ ý nhận lời.

  • Lời của nhân vật: – Mày được ta chăm nuôi, mày có chịu dốc sức liều chết vì ta không?
  • Lời của người kể chuyện: Anh thường đùa với nó:Con vật gật đầu, nghoe nguẩy đuôi như tỏ ý nhận lời.

Câu 3:

Chỉ ra và phân tích tác dụng của yếu tố kì ảo được sử dụng trong truyện "Chuyện con chó có nghĩa của một nhà nghèo".

  • Yếu tố kì ảo: Yếu tố kì ảo trong truyện là việc con chó Hàn Lư có thể nói chuyện như người và biết lý luận để bảo vệ quan điểm, trách nhiệm của mình. Đây là điều không thể xảy ra trong thực tế, vì loài vật không thể nói tiếng người.

  • Tác dụng: Yếu tố kì ảo này có tác dụng làm tăng sức hấp dẫn cho câu chuyện, đồng thời nhấn mạnh vào đức tính trung thành, có nghĩa có tình của con chó Hàn Lư. Qua đó, người đọc cảm nhận sâu sắc hơn về lòng trung thành, biết giữ khí tiết, nghĩa tình của Hàn Lư, như một tấm gương sáng để răn dạy con người trong xã hội.


Câu 4:

Xác định chủ đề của văn bản "Chuyện con chó có nghĩa của một nhà nghèo".

Chủ đề của văn bản là ca ngợi lòng trung thành, đạo nghĩa và khí tiết của con chó Hàn Lư đối với chủ nhân, đồng thời phê phán những kẻ vô đạo đức, những kẻ quay lưng lại với nghĩa tình khi gặp khó khăn. Truyện nhắc nhở con người giữ gìn lòng trung nghĩa, biết đền ơn đáp nghĩa và sống theo những chuẩn mực đạo đức.


Câu 5:

Em rút ra được bài học gì cho bản thân sau khi đọc văn bản "Chuyện con chó có nghĩa của một nhà nghèo".

Bài học rút ra là giữ lòng trung thành, biết ơn và giữ gìn đạo nghĩa là điều rất quan trọng trong cuộc sống. Con người cần phải sống có nghĩa có tình, không để vật chất hay danh lợi làm thay đổi lòng mình. Câu chuyện về con chó Hàn Lư còn nhắc nhở chúng ta biết trân trọng, giữ gìn những giá trị tinh thần, tránh xu thời hay quay lưng khi gặp khó khăn.


II. PHÂN TÍCH VĂN BẢN (6,0 điểm)
Phân tích văn bản "Than nỗi oan" (Trích Tự tình khúc - Cao Bá Nhạ)

Bài thơ "Than nỗi oan" của Cao Bá Nhạ là một đoạn thơ lột tả nỗi đau đớn, xót xa của tác giả khi phải chịu oan khuất, bị tổn thương cả về thể xác lẫn tinh thần.

1. Nỗi đau đớn của tác giả
  • Ngay từ hai câu thơ mở đầu:

    "Đuôi con mắt châu sa thấm giấy
    Đầu ngón tay máu chảy pha son",
    tác giả đã vẽ nên hình ảnh đau thương và tủi nhục. Giọt nước mắt "châu sa" và đầu ngón tay "máu chảy" tượng trưng cho nỗi đau và sự oan ức đã chạm đến tận cùng cảm xúc.

2. Nỗi buồn của cảnh vật và tâm trạng
  • Cảnh vật trong thơ mang nỗi buồn ảm đạm:

    "Thông gầy như trúc, cúc mòn như mai"
    cho thấy cảnh sắc buồn bã, héo úa, như đồng điệu với tâm trạng của tác giả. Cảnh vật không chỉ là khung nền mà còn là sự phản ánh nội tâm đầy phiền muộn của Cao Bá Nhạ.

3. Tâm sự nặng nề, bế tắc
  • Cao Bá Nhạ diễn tả nỗi oan trong lòng:

    "Mối tâm sự rối mười phần thảm
    Gánh gia tình nặng tám năm dư".
    Tác giả đã mang nỗi oan ấy một thời gian dài mà không ai thấu hiểu. Câu thơ gợi lên một nỗi bức bối như muốn bùng phát.

4. Khao khát được minh oan
  • Tác giả gửi nỗi lòng lên trời cao, mong chờ một sự minh xét:

    "Hương thề nguyện khói nồng trước gió
    Tờ tố oan mở ngỏ giữa trời".
    Tuy nhiên, nỗi oan vẫn chưa được giải tỏa, thể hiện qua câu hỏi da diết và thất vọng:
    "Hương thề sao chửa thấu nơi cửu trùng".

Kết luận

"Than nỗi oan" là lời bộc bạch của Cao Bá Nhạ về nỗi oan khuất, vừa là lời than vừa là lời oán trách với hy vọng có ngày sẽ được minh oan. Bài thơ khắc họa sâu sắc nỗi đau của tác giả, giúp người đọc thấu hiểu hoàn cảnh bế tắc và sự đau đớn của người mang thân phận oan trái. Qua đó, tác phẩm khơi dậy sự đồng cảm, trân trọng với những ai phải chịu bất công và nhắc nhở chúng ta sống công bằng, biết cảm thông.




 

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
Nam
02/11 21:42:38
+4đ tặng

I. ĐỌC HIỂU

Câu 1: Văn bản "Chuyện con chó có nghĩa của một nhà nghèo" được kể lại từ ngôi thứ nhất. Người kể chuyện xưng "tôi" ở cuối văn bản, thể hiện quan điểm và lời bình của mình.

Câu 2:

  • Lời của nhân vật (Đào Cảnh Long): "– Mày được ta chăm nuôi, mày có chịu dốc sức liều chết vì ta không?"

  • Lời của người kể chuyện: Phần còn lại của câu văn, bao gồm cả miêu tả hành động của con chó: "Anh thường đùa với nó:", "Con vật gật đầu, nghoe nguẩy đuôi như tỏ ý nhận lời."

Câu 3: Yếu tố kì ảo trong truyện là con chó Hàn Lư biết nói tiếng người. Tác dụng của yếu tố này:

  • Làm tăng tính hấp dẫn, lôi cuốn cho câu chuyện: Việc con chó biết nói tạo nên sự bất ngờ, thú vị cho người đọc, kích thích trí tò mò muốn theo dõi câu chuyện.

  • Gửi gắm thông điệp, ý nghĩa sâu sắc: Thông qua lời nói của Hàn Lư, tác giả thể hiện lòng trung thành tuyệt đối của con vật với chủ, đồng thời phê phán thói đời bạc bẽo, phản trắc của một số người. Việc sử dụng yếu tố kì ảo giúp thông điệp này trở nên ấn tượng và dễ đi vào lòng người hơn.

  • Nâng cao giá trị tố cáo: Lời nói của Hàn Lư càng làm nổi bật sự vô liêm sỉ của phú ông họ Trương và những kẻ "lúc nước nhà yên vui thì bợ đỡ cầu vinh, lúc cuộc đời rối ren thì trở mặt đổi giọng, bán nước kiếm ăn".

Câu 4: Chủ đề của văn bản là ca ngợi lòng trung thành, tiết nghĩa của con chó Hàn Lư đối với người chủ nghèo khó, đồng thời phê phán những kẻ đổi trắng thay đen, bất trung bất nghĩa, không bằng loài vật.

Câu 5: Bài học rút ra:

  • Cần sống có tình có nghĩa, trung thành với những người đã giúp đỡ mình.

  • Phải biết sống ngay thẳng, trong sạch, không vì vật chất mà đánh đổi lương tâm.

  • Lòng trung thành, tiết nghĩa là phẩm chất đáng quý, cần được trân trọng.

II. VIẾT

Phân tích văn bản "Than nỗi oan" (Trích tự tình khúc - Cao Bá Nhạ):

Bài thơ là lời than thân của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, nỗi đau chồng chất bởi cả oan tình và gánh nặng gia đình.

  • Hai câu thơ đầu: Sử dụng hình ảnh "đuôi con mắt châu sa thấm giấy / Đầu ngón tay máu chảy pha son" gợi tả nỗi đau đớn, xót xa tột cùng. Châu sa là nước mắt, máu là nỗi đau thể xác, son là vật trang điểm tượng trưng cho duyên phận. Tất cả hòa quyện vào nhau, cho thấy người phụ nữ đang gánh chịu nỗi đau cả về thể xác lẫn tinh thần.

  • Hình ảnh thiên nhiên: "Thông gầy như trúc, cúc mòn như mai" không chỉ là bức tranh thiên nhiên mà còn là sự đồng cảm, phản ánh tâm trạng u uất, tàn tạ của người phụ nữ. Thiên nhiên cũng trở nên buồn bã, héo mòn trước nỗi đau của con người.

  • Nỗi đau oan khuất và gánh nặng gia đình: "Mối tâm sự rối mười phần thảm / Gánh gia tình nặng tám năm dư" cho thấy nỗi đau của người phụ nữ đến từ hai phía: nỗi oan tình chưa được giải và gánh nặng gia đình đè nặng lên vai. Hai nỗi đau này đan xen, khiến cuộc sống của nàng trở nên bế tắc.

  • Sự chờ đợi trong vô vọng: "Khi ngày mong bức xá thư / Khi đêm than bóng, khi trưa hỏi lòng" là những khoảnh khắc thời gian triền miên, lặp đi lặp lại, thể hiện sự chờ đợi mỏi mòn, vô vọng của người phụ nữ. Nàng khao khát được giải oan nhưng bức xá thư vẫn bặt vô âm tín.

  • Hình ảnh "hương thề" và "tờ tố oan": "Hương thề nguyện khói nồng trước gió / Tờ tố oan mở ngỏ giữa trời" là sự đối lập giữa lời thề nguyền xưa kia và nỗi oan khuất hiện tại. Hương thề đã tan theo gió, còn tờ tố oan vẫn chưa được ai thấu hiểu.

  • Câu hỏi cuối bài: "Hương thề sao chửa thấu nơi cửu trùng" là lời oán trách, kêu than đầy xót xa, đồng thời thể hiện niềm khao khát công lý, mong muốn nỗi oan tình của mình được minh oan.

Tóm lại, bài thơ "Than nỗi oan" là tiếng kêu ai oán của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, nơi mà thân phận của họ bị chà đạp, nỗi đau bị bỏ mặc. Bài thơ mang giá trị nhân đạo sâu sắc, gây xúc động mạnh mẽ cho người đọc.

0
0
Minh Hangngo
02/11 21:42:58
+3đ tặng

- Ngôi kể: ngôi thứ 3
- Lời của người kể chuyện: Anh thường đùa với nó; Con vật gật đầu, nghoe nguẩy đuôi như tỏ ý nhận lời.

Lời của nhân vật (Đào Cảnh Long): Mày được ta chăm nuôi, mày có chịu dốc sức liều chết vì ta không?

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Đấu trường tri thức | Lazi Quiz Challenge +500k
Gửi câu hỏi
×