Ca dao dân ca là những tiếng nói nghĩa tình, phản ánh về cuộc sống hàng ngày của người dân lao động. Một cuộc sống bình dị, đời thường nhưng trong xã hội ấy cũng có biết bao số phận éo le, bất hạnh. Thân phận thấp bé khiến họ chẳng thể kêu than với ai mà gửi gắm tâm tư qua những bài ca dao than thân:
Thương thay thân phận con tằm
Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ
Thương thay lũ kiến li ti
Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi
Thương thay hạc lánh đường mây
Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi
Thương thay con cuốc giữa trời
Dầu kêu ra máu có người nào nghe
Trong bài ca dao trên tác giả đã sử dụng các hình ảnh ẩn dụ, thông qua thân phận của những con vật nhỏ bé, lam lũ trong cuộc sống để nói đến nỗi vất vả, cực nhọc của người nông dân. Bốn cặp câu lục bát nói đến bốn thân phận của những loài vật nhỏ bé và đều bắt đầu bằng cụm từ “thương thay”. Thể hiện nỗi niềm thương cảm, xót xa và cũng là sự đồng cảm, sẻ chia với những vất vả của mỗi số phận được nhắc đến. Đó là thân phận con tằm, suốt đời tằm chỉ ăn lá dâu và rồi bao tinh túy chắt lọc, để ra được sợi tơ quý. Tằm rút ruột mình để cho ngươi những sợi tơ óng ánh, quý giá. Lúc rút hết ruột cũng là lúc nó kết thúc cuộc đời của mình.Và khi ấy, thân xác chúng bị gạt bỏ, rẻ rúm. Những người nông dân bé cổ thấp họng trong xã hội cũ cũng vậy, cả đời khom lưng quỳ gối, bị bóc lột sức lao động đến hơi thở cuối cùng để làm giàu cho lũ địa chủ, quan tham tàn nhẫn và độc ác. Hình ảnh con tằm như đại diện cho bao kiếp người đau khổ, sống trong nỗi nhọc nhằn bị bòn gan rút ruột của nhân dân ta thời trước.
Hình ảnh thứ hai được nhắc đến là lũ kiến. Chúng là những sinh vật bé nhỏ nhất, ăn chẳng bao nhiêu nhưng cả đời cần mẫn, chăm chỉ đi tìm mồi. Lặng lẽ đi tha mồi về nuôi “kiến chúa” – con vật đứng đầu trong tổ, chỉ nằm một chờ “kiến thợ “tha những miếng mồi ngon nhất về để ăn. Đàn kiến thầm lặng nối đuôi nhau thành hàng dài đi kiếm mồi ở khắp mọi nơi mà chẳng oán thán một lời. Hình ảnh ẩn dụ đó khiến ta liên tưởng đến những kiếp người, cả đời lam lũ, làm nhiều chẳng hưởng được bao nhiêu, phải cung phụng những kẻ “ngồi mát ăn bát vàng”, những kẻ chuyên quyền ngồi trên chỉ tay sai bảo.
Còn đó là hình ảnh của con hạc gầy gò, cả đời bay mãi tìm nơi neo đậu mà chẳng biết về đâu dù đôi cánh đã mệt mỏi rã rời. Cánh chim ấy cứ bay mãi, nhẫn nại, cam chịu và rồi là tiếng than trong vô vọng. Kiếp người cũng vậy, thân phận nghèo hèn, làm lụng suốt đời mà chẳng biết tương lai rồi sẽ ra sao. Sự xót xa, ngậm ngùi cho thân phận đáng thương giữa dòng đồi nổi trôi, vô định.
HÌnh ảnh cuối cùng được nhắc đến là tiếng cuốc kêu giữa trời xanh vô tận, tiếng kêu ấy dẫu có nhỏ máu mà chết cũng chẳng ai thấu hiểu. Thân phận của những kẻ thấp cổ bé họng, những người lao động nghèo khổ tận cùng của xã hội, tiếng kêu ấy dẫu có oán thán đến đâu cũng chẳng một ai đoái hoài, cảm thông.
Bằng biện pháp nghệ thuật ẩn dụ sâu sắc và điệp từ “Thương thay” được đặt ở đầu câu, đã nhấn mạnh nỗi vất vả, gian khó, thân phận thấp hèn của người dân lao động khi xưa. Qua đó, ta thêm cảm thông hơn với những ngày tháng đất nước còn chìm trong đêm trường áp bức, bóc lột của bè lũ quan tham, địa chủ còn tồn tại. Những câu ca dao sẽ mãi còn giá trị với thế hệ con cháu mai sau.