Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phân tích các nhân tố giao tiếp trong văn bản sau: Thân em như hạt mưa sa

Phân tích các nhân tố giao tiếp trong văn bản sau:
vb1.     Thân em như hạt mưa sa 
       Hạt vào đài các,hạt ra ruộng cày
vb2.      Cưới nàng anh toan dẫn voi
     Anh sợ quốc cấm, nên voi không bàn
              Dẫn trâu, sợ họ máu hàn
      Dẫn bò , sợ họ nhà nàng co gân
              Miễn là có thú bốn chân
      Dẫn con chuột béo ,mời dân ,mời làng.
              Chàng dẫn thế em lấy làm sang
      Nỡ nào em lại phá ngang như là 
             Người ta thách lợn thách gà
       Nhà em thách cưới một nhà khoai lang
             Củ to thì để mời làng  
       Còn như củ nhỏ họ hàng ăn chơi
            Bao nhiêu củ mẻ chàng ơi
       Để cho con trẻ ăn chơi giữ nhà
            Bao nhiêu củ rím củ hà 
     Để cho con lợn con gà nó ăn 
2 trả lời
Hỏi chi tiết
624
1
1
*•.¸♡ლâγ♡¸.•*
27/10/2019 14:33:10
Mỗi bài ca dao tôi từng được nghe đều có hình ảnh làng quê, con người, sự vật, hoạt động… thân thiết, gắn bó với tuổi thơ của mình. Sau mỗi bài ca dao, tôi lại thấu hiểu hơn tâm hồn, tình cảm, tư tưởng hay nỗi lòng của con người Việt Nam xưa. Bài ca dao sau đây cũng là một ấn tượng sâu sắc với tôi, để lại trong tôi nhiều suy nghĩ:
Thân em như hạt mưa rào
Hạt rơi xuống giếng hạt vào vườnĐây là một trong số rất nhiều bài ca dao bắt đầubằng từ “thân em” mà tôi từng biết. Ca dao dân ca có vô số bài bắt đầu bằng hình ảnh này:
Thân em như giếng giữa đàng
Người không rửa mặt người phàm rửa chân
Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai
Hình ảnh “thân em” gợi lên nhiều điều. Từ “em” không xác định cụ thể ai đó mà là nhắc tới những người phụ nữ nói chung. Chữ “thân” đứng đầu như thể nhấn mạnh tới vẻ đẹp bề ngoài hoặc là thân phận, số phận của người phụ nữ. Hai chữ “thân em” giống như lời than thở dài của những người phụ nữ trong xã hội xưa. Mỗi bài ca dao là một lời than thì hẳn người phụ nữ xưa cảm thấy tủi hờn về cuộc đời mình nhiều lắm.
Mưa mang lại nguồn nước, nước là nguồn sống cho con người. Người ta từng quan niệm mưa chính là thứ thiêng liêng, là sự ban phát điềm tốt lành của ông trời cho con người và nước mưa là thứ nước tinh tuý của trời đất. Xưa kia, khi nước mưa còn sạch, người dân thường hứng để tích trữ và có thể uống trực tiếp. Nước mưa mát lành, tinh khiết tựa dòng sữa của bà mẹ thiên nhiên nuôi sống con người, cho mùa màng tươi tốt. Vào mùa hè thường có các trận mưa rào, cung cấp lượng nước lớn cho nông nghiệp lúa nước. Những trận mưa rào cứu ruộng đồng hạn hán, người dân có thể vui sướng mà nhảy múa trong mưa. Vì sao ta phải tìm hiểu kĩ về mưa rào như vậy? Bởi, nó có thể giúp ta hiểu rõ được “thân em” kia. Người xưa muốn khẳng định người phụ nữ thôn quê dáng dấp đằm thắm, mặn mà, nội tâm trong trẻo và giàu sức sống như cơn mưa rào.
Đến câu thơ thứ hai, mặt trái của cuộc đời người phụ nữ được thể hiện:
Hạt rơi xuống giếng hạt vào vườn hoa
Phải, mưa rào tuyệt vời đấy nhưng cuối cùng vẫn chỉ là phận mưa, nó có thể rơi xuống bất kì đâu. Nếu mưa xuống giếng sâu, nó sẽ chìm lặng dưới đáy u tối chờ người ta sử dụng. Nếu mưa may mắn hơn, nó sẽ rơi xuống vườn hoa, vừa làm đẹp cho vườn hoa, vừa như có giá trị hơn. Phận người phụ nữ cũng vậy, người phụ nữ được đến nơi tốt đẹp thì sẽ hạnh phúc nhưng nhỡ may rơi vào cảnh lỡ dở thì cũng đành chấp nhận. Họ không thể làm chủ cuộc đời mình. Bởi, họ bị ràng buộc vào những định kiến, lễ giáo hà khắc như “trọng nam khinh nữ”, “xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”… Phận Thuý Kiều (Truyện Kiều – Nguyễn Du) cũng vậy. Kiều lớn lên trong gia đình khá giả thì “êm đềm trướng rủ màn che”, gặp được tài tử Kim Trọng thì có tình yêu mãnh liệt, Kiều sa chân vào lầu xanh thì bị khinh rẻ coi như món hàng… Cuộc đời của nhân vật Thuý Kiều là minh chứng điển hình nhất cho câu ca dao trên.
Tóm lại, bài ca dao “Thân em như hạt mưa rào / Hạt rơi xuống giếng hạt vào vườn hoa” đã thể hiện nỗi tủi hờn của người phụ nữ xưa khi không được làm chủ cuộc đời, phải phó mặc cho số phận đưa đẩy. Quả thật, người phụ nữ muôn đời vẫn luôn phải chịu những bất công. Sẽ còn nhiều tiếng than thân hơn nữa nếu như chúng ta không trân trọng và giành lấy quyền lợi cho người phụ nữ.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
NGUYỄN THANH THỦY ...
27/10/2019 14:44:17
Ca dao – dân ca là một thể loại văn học dân gian có khả năng đi sâu phản ánh mọi mặt cuộc sống của
nhân dân lao động. Phong tục cưới xin cũng là một để tài quen thuộc mà ca dao thường quan tâm, miêu
tả. Với cái nhìn hóm hỉnh, hài hước, tác giả dân gian phản ánh phong tục cưới xin ngày xưa qua bài ca
dao sau đây:
Cưới nàng, anh toan dẫn voi,
Anh sợ quốc cấm, nên voi không bàn.
Dẫn trâu, sợ họ máu hàn,
Dẫn bò, sợ họ nhà nàng co gân.
Miễn là có thú bốn chân,
Dẫn con chuột béo, mời dân, mời làng.
Chàng dẫn thế em lấy làm sang,
Nỡ nào em lại phá ngang như là…
Người ta thách lợn thách gà,
Nhà em thách cưới một nhà khoai lang:
Củ to thì để mời làng,
Còn như củ nhỏ, họ hàng ăn chơi.
Bao nhiêu củ mẻ, chàng ơi!
Để cho con trẻ ăn chơi giữ nhà;
Bao nhiêu củ rim, củ hà,
Để chò con lợn, con gà nó ăn…
Bài ca dao thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người lao động : dù trong cảnh sống nghèo khó vẫn luôn lạc quan,
yêu đời. Đám cưới nghèo đến vậy mà vẫn vui. Người bình dân đã tìm thấy niềm vui ngay trong cảnh
nghèo như thế.
Đây là tiếng cười tự trào của người bình dân trong ca dao. Người lao động tự cười mình trong cảnh
nghèo. Lại chọn đúng cảnh đám cưới là lúc bộc lộ rõ nhất cái nghèo để cưới, để vui, để thể hiện lòng yêu
đời, ham sống. Khi người ta tự cười mình thì tiếng cười ấy bộc lộ rõ nhất bản lĩnh và quan niệm sống của
họ. Vậy thì ở đây, người nông dân đã tự cười mình như thế nào và tiếng cười ấy đã cho ta thấy tâm hổn
của họ ra sao?
Bài ca dao là cuộc đối thoại lí thú giữa chàng và nàng. Các tác giả dân gian đã mượn hình ảnh trào lộng,
hài hước để thể hiện nội dung trữ tình. Tình yêu của chàng trai và cô gái sắp sửa tiến tới hôn nhân. Để đi
tới trăm năm hạnh phúc, đôi trai tài gái sắc còn phải bước qua cửa ải xin cưới, dẫn cưới, đây cũng là tập
tục gây trở ngại cho không ít cặp uyên ương.
Đứng trước sự việc hệ trọng của đời người, chàng và nàng không còn mơ mộng như lúc mới yêu nhau
được nữa. Hai người đã tâm sự, bàn bạc với nhau trước khi chính thức trình quan viên hai họ về dự định
cho đám cưới nay mai.
Sự lí thú bắt đầu từ chỗ chàng trai chủ động kể về những lễ vật mà mình toan dẫn cưới khi anh ta chưa hể
hỏi người yêu là nhà gái thách cưới những gì. Chàng trai hồn nhiên giãi bày:
Cưới nàng, anh toan dẫn voi,
Anh sợ quốc cấm, nên voi không bàn.
Dẫn trâu, sợ họ máu hàn,
Dẫn bò, sợ họ nhà nàng co gân.
Miễn là có thú bốn chân,
Dẫn con chuột béo, mời dân, mời làng.
Lời tâm sự bộc lộ hoàn cảnh, tấm lòng, tính nết, tâm tư, nguyện vọng của chàng trai. Nhà nghèo thật
nhưng cưới vợ chẳng lẽ lại không có lễ vật dẫn cưới theo đúng phong tục ? Sự khoác lác, ba hoa của
chàng trai được tác giả hé mở qua từ toan: Cưới nàng, anh toan dẫn voi… một ý định phi lí khó có thể
thành hiện thực. Chàng trai đã khôn ngoan đưa ra những lễ vật chỉ có trong tưởng tượng của mình. Đó là
voi, trâu, bò… toàn những con vật quý hiếm hoặc đắt tiền, có khi cả đời anh ta không thể nào mua được.
Để trấn an người yêu, bằng lối nói khoa trương, phóng đại, chàng trai đã dõng dạc lặp lại ba lần với vẻ tự
tin như đinh đóng cột: dẫn voi, dẫn trâu, dẫn bò. Chàng trai đã “tưởng tượng” ra lễ cưới thật sang trọng,
lình đình. Ai ngờ mỗi lần công bố lại là một lần thay đổi, mỗi lần thay đổi lại được giải thích bằng lí do
nực cười: dẫn voi / sợ quốc cấm, dẫn trâu / sợ máu hàn và dẫn bò/ sợ họ nhà nàng co gân. Lí lẽ của chàng
trai thoạt nghe cũng có vẻ chấp nhận được. Chàng giải thích lí do không dẫn các lễ vật nêu trên một cách
khôn ngoan: phần vì tôn trọng luật pháp, phần vì lo lẳng cho sức khỏe họ hàng nhà gái (từ sợ được lặp lại
ba lần). Đúng là một chàng rể chu đáo, cẩn thận, ai nỡ ngờ vực lòng thành của chàng.
Đọc kĩ, ta sẽ thấy với lối nói giảm dẫn: voi – trâu – bò – chuột, chàng trai đã khéo léo đánh đồng con voi,
con trâu, con bò với con chuột, vì chúng đều là thú bốn chân! Sự khéo léo còn được tô vẽ bằng hình ảnh
hài hước: dẫn con chuột béo, tức là lễ vật cũng đàng hoàng, tươm tất để mời dân mời làng, nào có thua
kém gì so với các lễ vật khác.
Bằng biện pháp trào phúng sắc sảo, các tác giả dân gian đã chi ra sự lúng túng, bao biện của chàng trai.
Sự khoe khoang, khoác lác dù có tinh ranh đến đâu, lập luận khôn ngoan đến mấy thi cuối cùng sự thật
cũng bị phơi bày trước con mắt của cô gái.
Như trên đã nói, tuy cô gái chưa nêu ra điều kiện dẫn cưới nhưng chàng trai đã vội vã công bố lễ vật dẫn
cưới của mình. Lễ vật lúc đầu thì to tát, sang trọng, càng về sau càng giảm và rốt cuộc chỉ là một con
chuột béo, làm cho ai ai cũng phải ngơ ngác, ngạc nhiên. Thành ngữ Đầu voi đuôi chuột bắt nguồn từ đây
chăng?
Nhưng ngược lại, cô gái trong bài ca dao lại thản nhiên, bình tĩnh, không chê bai, không từ chối mà còn
khen: Chàng dẫn thế em lấy làm sang. Nỡ nào em lại phá ngang như là.., Bởi cô gái đã “đi guốc vào
bụng” người yêu. Cô còn lạ gì tính sĩ diện của chàng trai muốn làm đám cưới thật linh đình trong khi nhà
nghèo, tiền nong chẳng có. Cô gái thông minh đã bắt thóp được điểm yếu của chàng trai. Bằng tấm lòng
chân thành của người vợ tương lai, cô ôn tồn giãi bày ý định của mình:
Người ta thách lợn thách gà,
Nhà em thách cưới một nhà khoai lang.
Cưới xin là việc hệ trọng nhất trong đời người con gái, vậy mà cô chi thách có… một nhà khoai lang! Kể
cũng lạ đời! Nhưng như vậy là đủ lắm rồi, vì nhà em nghèo mà nhà anh cũng nghèo. Thái độ không mặc
cảm mà còn chấp nhận cảnh nghèo khiến cho lời thách cưới lạ lùng bỗng trở nên dí dỏm, đáng yêu. Hơn
thế nữa, lời thách cưới của cô gái còn chứa đựng một triết lí nhân sinh của người lạo động thuở xưa: coi
tình nghĩa quý hơn của cải.
Cô gái không đả động đến những vật dẫn cưới như voi, trâu, bò, chuột… mà chàng trai vừa nêu ra. Hai từ
đối lập Người ta và Nhà em chi ra hai lối suy nghĩ khác nhau. Chúng ta cũng không khỏi ngạc nhiên khi
cô gái thách cưới bằng một lễ vật độc đáo, ít ai nghĩ đến: một nhà khoai lang. Cũng hài hước, dí dỏm
nhưng chàng trai thì úp úp, mở mở; còn cộ gái lại thật thà như đếm. Bởi vì lễ vật mà cô thách cưới giản dị
quá, tầm thường quá! Câu nói của cô như mở lòng, mở dạ cho chàng trai, khiến chàng thoát khỏi tình thế
phân vân, lúng túng.
Một nhà khoai lang, mới nghe tưởng quá nhiều nhưng thực tế đó là thử lễ vật xoàng xĩnh, chàng trai có
thể kiếm được. Dân tộc ta bao đời nay sống bằng lúa ngô, khoai sắn. Lễ vật tuy bình thường nhưng ý
nghĩa thì sâu xa, thấm thía.
Để cho người yêu an tâm không còn băn khoăn gì nữa, cô gái giải thích cặn kẽ:
Củ to thì để mời làng,
Còn như củ nhỏ họ hàng ăn chơi.
Làng là các vị chức sắc trong làng xã, mỗi khi có ma chay, cưới hỏi, phải nghĩ đến họ trước tiên. Cô gái
đã cẩn thận chọn những củ to để mời làng theo đúng lễ nghi. Còn khoản đãi bà con họ hàng, cô gái dùng
những củ nhỏ hơn. Cùng cảnh ngộ “thân cò, thân chim”, ai mà không cảm thông, chia sẻ.
Lo cho làng và họ hàng xong, cô gái mới quay về với gia đình mình:
Bao nhiêu củ mẻ, chàng ơi!
Để cho con trẻ ăn chơi giữ nhà.
Tiếng gọi chàng ơi! như thổn thức tận đáy lòng cô gái. Cô muốn có sự đồng cam cộng khổ với người yêu.
Cô tính toán tỉ mỉ: bao nhiêu củ mẻ sẽ để cho con trẻ ăn chơi giữ nhà. Thật tội nghiệp nhưng không sao!
Trẻ con, rất hồn nhiên, chúng không đòi hỏi gì cả, vì chúng hiểu nhà mình cũng rất nghèo.
Cách suy tính của cô gái thật cụ thể, kĩ càng:
Bao nhiêu củ rim, củ hà,
Để cho con lợn, con gà nó ăn…
Tấm lòng chân thành của cô gái dành cho làng, họ hàng, con trẻ và còn cho cả con lợn, con gà nữa.
Dường như cô muốn tất thảy đều vui vẻ chia sẻ với hạnh phúc của cô.
Còn kiếm đâu ra được cô gái chu đáo, đảm đang như cô gái này nữa ? Chàng trai chắc không còn băn
khoăn, lo lắng. Đám cưới của hai người sẽ thuận buồm xuôi gió, Mối tơ vò của chàng trai đã được cô gái
nhẹ nhàng, khéo léo tháo gỡ, họ thong dong đi vào cuộc sống lứa đôi hạnh phúc trăm năm. Kết thúc cuộc
tình thật có hậu!
Nghệ thuật hài hước, trào lộng kết tụ ở việc khắc họa hình ảnh chàng trai cố khoe mẽ để che đậy cảnh
nghèo của mình và ở việc miêu tả thái độ chân thật, cởi mở, nhẹ nhàng kiểu “lạt mềm buộc chặt, nói ngọt
lọt đến xương” của cô gái.
Bài ca dao thành công vì đã đối sánh hai tính cách, hai hướng suy nghĩ khác nhau. Đó là sự đối lập giữa
tính sĩ diện, đua đòi theo thói tục lạc hậu và sự sáng suốt, giản dị phù hợp với cuộc sống của quần chúng
lao động.
Đọc bài ca dao trào lộng Cưới nàng anh toan dẫn voi…, đằng sau tiếng cười hả hê có khi là nước mắt.
Với sự thương yêu, đồng cảm trong cuộc sống, thuận vợ thuận chồng trong nếp nghĩ và công việc, những
đôi lứa đang yêu nhất định sẽ sống hạnh phúc. Đó cùng là ước mơ của người bình dân tự ngàn xưa.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư