Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Dàn ý chi tiết giá trị nhân đạo trong đoạn trích Chị em Thúy kiều

2 trả lời
Hỏi chi tiết
384
1
1
I. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả, tác phẩm, đoạn trích
+ “Truyện Kiều” là kiệt tác của thi hào dân tộc Nguyễn Du, cũng là kiệt tác của nền văn học Việt Nam. “Truyện Kiều” vừa có giá trị lớn về mặt nội dung vừa có giá trị về mặt nghệ thuật.
+ Phân tích các đoạn trích “Chị em Thuý Kiều”, “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, “Mã Giám Sinh mua Kiều”, “Kiều báo ân báo oán” ta thấy được tác giả đã thương xót cho số phận bất hạnh của Thuý Kiều cũng là thương xót cho số phận bất hạnh của biết bao người phụ nữ trong xã hội cũ.
II. Thân bài
1. Giá trị nhân đạo trong văn học
* Khái niệm
- Chủ nghĩa nhân đạo là tư tưởng yêu thương con người, tôn trọng các giá trị của con người.
* Biểu hiện
Biểu hiện của chủ nghĩa nhân đạo:
- Trân trọng vẻ đẹp của con người
- Thương xót cho số phận đau thương của con người
- Tố cáo, phê phán những thế lực chà đạp lên con người
- Thấu hiểu ước mơ của con người.
2. Biểu hiện của giá trị nhân đạo trong Truyện Kiều
a) Trân trọng vẻ đẹp của con người
* Vẻ đẹp ngoại hình: Nguyễn Du đã dành nhiều ưu ái khi xây dựng chân dung nhân vật.
- Với Thúy Vân, Nguyễn Du miêu tả tỉ mỉ, chi tiết để dựng nên bức chân dung vừa đáng yêu, thiện cảm, vừa trang trọng, quý phái:
“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
- Với Thúy Kiều, Nguyễn Du sử dụng bút pháp “tả mây tô trăng”, “điểm nhãn” để dựng nên bức chân dung sắc sảo, hoàn mỹ, không ngôn từ nào diễn tả hết:
“Kiều càng sắc sảo mặn mà
So về tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”
Cũng như những nhà thơ trung đại khác, Nguyễn Du sử dụng thủ pháp ước lệ để xây dựng chân dung nhân vật, nhưng đối với Nguyễn Du, vẻ đẹp của con người không chỉ sánh ngang với thiên nhiên, mà thậm chí vượt qua thiên nhiên, khiến thiên nhiên phải “thua, nhường”, “ghen, hờn” trước sắc đẹp con người.
* Vẻ đẹp đức hạnh
- Cả Thúy Kiều và Thúy Vân đều có đức hạnh đoan trang, đúng mực:
“Phong lưu rất mực hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ đến tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Ở Thúy Kiều sáng lên vẻ đẹp của đạo hiếu:
“Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh biết ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”
Ở Kiều, người đọc còn trân trọng một đức tính thủy chung:
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Chân trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”
Ngoài ra, Thúy Kiều còn có tấm lòng trọng ân nghĩa, khi trả ơn Thúc Sinh, nàng nói:
“Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng
Tại ai há dám phụ lòng cố nhân”
Và một tấm lòng bao dung, độ lượng khi tha thứ cho Hoạn Thư:
“Tha ra thì cũng may đời
Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen
Đã lòng tri quá thì nên”
* Vẻ đẹp tài năng: Tiến bộ hơn các nhà thơ thời trung đại, Nguyễn Du còn đề cao người phụ nữ ở phương diện tài năng, ông đã xây dựng một nhân vật Thúy Kiều đa tài, mà tài nào cũng xuất sắc, tuyệt đỉnh:
“Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân”
→ Trong quan niệm của Nguyễn Du, “chữ tài liền với chữ tai một vần”
⇒ Nói đến cái tài, bên cạnh sự trân trọng còn là một dự cảm bất an cho số phận truân chuyên của con người.
b) Thương xót cho số phận đau thương của con người
- Đau xót cho thân phận con người bị chà đạp, khinh rẻ, bị biến thành một món hàng để cân đo đong đếm:
“Nỗi mình thêm tức nỗi nhà
Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng
Ngại ngùng dợn gió e sương
Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày.”
Đau xót cho cảnh ngộ côi cút, đơn độc nơi lầu Ngưng Bích “khóa xuân”:
“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bồn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”
Nguyễn Du nhập thân vào nhân vật để cảm nhận hết nỗi đau của nhân vật, tác phẩm viết ra như có “máu chảy trên đầu ngọn bút”, thương cảm cho tương lai bất định, nhiều bất an của Kiều nơi lầu Ngưng Bích:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
c) Tố cáo, phê phán những thế lực chà đạp lên con người
- Nguyễn Du đã sử dụng ngòi bút hiện thực để vạch trần bản chất xấu xa của những kẻ bất nhân trong xã hội xưa, những kẻ “buôn thịt bán người”, kiếm sống trên thân xác của những cô gái vô tội, tiêu biểu là Mã Giám Sinh.
- Nguyễn Du đã bóc trần cái mác “giám sinh” của họ Mã để cho thấy tính cách vô học, thô thiển của hắn:
“Gần miền có một mụ nào
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh
Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh
Hỏi quê, rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần
Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày rầu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao
Trước thầy sau tớ lao xao
Nhà băng đưa lối rước vào lầu trang
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”
- Đồng thời ông cũng phẫn nộ trước bản chất con buôn của họ Mã:
“Đắn đo cân sắc cân tài
Ép cung cầm nguyệt thử tài quạt thơ
Mặn nồng một vẻ một ưa,
Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu.
Rằng: Mua ngọc đến Lam Kiều
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?”

“Cò kè bớt một thêm hai”
d) Thấu hiểu ước mơ của con người
- Trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã thể hiện một ước mơ cao cả: Ước mơ một cuộc sống công bằng, cái thiện được khuyến khích, nâng niu, cái ác phải bị trừng phạt, phải trả giá. Nhân vật Từ Hải là đấng anh hùng trượng nghĩa, là người thực hiện ước mơ công lý của Nguyễn Du. Chính Từ Hải là người giải thoát Kiều khỏi chốn lầu xanh, cho Kiều cơ hội đổi đời, và cho Kiều cơ hội báo ân, báo oán → Ước mơ tốt đẹp, đáng trân trọng.
- Trong đoạn trích “Kiều báo ân báo oán” thái độ của Kiều rất rõ ràng:
+ Với người có ân, một mực trân trọng → Báo ân cho Thúc Sinh:
“Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân
Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là”
+ Với kẻ có tội, nghiêm khắc, công bằng, trừng phạt đúng người đúng tội, khoan hồng cho kẻ thực tâm hối cải → Lời nói đanh thép vạch tội Hoạn Thư:
“Dễ dàng là thói hồng nhan
Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều”
3. Đánh giá
* Về nội dung
- Chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du là một chủ nghĩa nhân đạo thấm đẫm yêu thương
- Nhân vật Thúy Kiều là nhân vật Nguyễn Du gửi gắm tâm sự.
- Chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du là một chủ nghĩa nhân đạo mới mẻ: Coi vẻ đẹp con người cao hơn thiên nhiên; tôn vinh cái tài của con người.
- Chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du hòa vào dòng chảy chủ nghĩa nhân đạo truyền thống của dân tộc, kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống, góp một tiếng nói bảo vệ, nâng niu con người đầy giá trị.
* Về nghệ thuật
- Giá trị nhân đạo được truyền tải qua những nghệ thuật đặc sắc:
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật (qua lời thoại, qua ngoại hình, qua tính cách) đặc sắc, điêu luyện.
- Nghệ thuật miêu tả tài tình: bút pháp tả mây tô trăng, phục bút, điểm nhãn, thủ pháp ước lệ…
- Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ bậc thầy, làm thăng hoa ngôn ngữ dân tộc.
III. Kết bài
- Cảm nghĩ bản thân về giá trị nhân đạo thông qua “Truyện Kiều” nói chung và qua bốn đoạn trích “Chị em Thuý Kiều”, “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, “Mã Giám Sinh mua Kiều”, “Kiều báo ân báo oán” nói riêng.
 

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
SayHaiiamNea ((:
28/10/2019 14:47:29
1. Mở bài
Đoạn trích "Chị em Thuý Kiều" là một trong những đoạn trích tiêu biểu thể hiện rõ giá trị nhân đạo cũng như cảm hứng nhân văn đầy mới mẻ của "Truyện Kiều".
2. Thân bài
* Cảm hứng nhân văn thể hiện ở sự trân trọng những vẻ đẹp của con người
- Vẻ đẹp về ngoại hình, sắc đẹp:
- Vân mang nét đẹp cao sang "trang trọng":
Khuôn mặt đầy đặn, ưu tú cùng nét lông mày sắc sảo
Mái tóc mềm mại tựa áng mây xa, làn da trắng tựa sắc tuyết ngày đông
Tiếng nói trong trẻo dịu dàng
=> Người con gái đoan trang, nết na, thùy mị.Vẻ đẹp gợi cảm, hoà hợp với tự nhiên tạo nên sự êm đềm, bình yên trong chính cuộc sống của mình.
- Vẻ đẹp của Kiều khiến cho hoa ghen, liễu hờn:
+ Đôi mắt nàng long lanh, sáng trong và dịu dàng như làn nước mùa thu
+ Hàng lông mày tựa như nét đẹp của núi mùa xuân
=> Vẻ đẹp "nghiêng nước, nghiêng thành" khiến thiên nhiên cũng phải hờn giận-> dự cảm về tương lai nhiều truân chuyên.
- Trân trọng vẻ đẹp về nhân cách, tài năng:
+ "Cầm, kì, thi, hoạ" tài ba
+ Mặc người đi về vẫn giữ phẩm hạnh cao đẹp
* Chủ nghĩa nhân văn còn được Nguyễn Du thể hiện qua việc bày tỏ sự cảm thông sâu sắc trước số phận bất hạnh:
- Dự cảm về tương lai nhiều đau thương của Kiều
- Đàn nên khúc bạc mệnh đớn đau
3. Kết bài
Qua đoạn trích, ta thấy được một nhân cách cao đẹp, một trái tim đẹp, một tấm lòng giàu yêu thương của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo