Có ai đó nói rằng: “Người phụ nữ là một nửa thế giới”. Và quả thật, họ đã đi vào những trang viết chảy suốt trong văn học từ trước đến nay, để rồi không phải làm nên một nửa, mà là trọn vẹn tấm hình trong sâu thẳm tâm hồn thế hệ người đọc.
Từ xưa đến nay, người phụ nữ luôn chiếm một vị trí trung tâm và là đối tượng chính trong văn học Việt Nam, thể hiện cảm quan hiện thực và khuynh hướng tư tưởng có màu sắc nhân văn. Và cũng với chủ đề đó, tôi – hôm nay đứng đây để bàn luận với các bạn về hình ảnh người phụ nữ qua các tác phẩm trong chương trình Ngữ Văn THCS.
Theo dòng chảy của lịch sử văn học Việt Nam, hình ảnh người phụ nữ vẫn xuyên suốt trong các tác phẩm. Trong thời chiến cũng như trong thời bình, người phụ nữ với những phẩm chất truyền thống tốt đẹp, những cung bậc cảm xúc phức tạp, những trăn trở cuộc đời. Họ đã đến và để lại cho nền văn học Việt Nam và trong lòng độc giả những ấn tượng thật sâu sắc, khó phai mờ. Sống trong cảnh ngộ chung của mọi người dân Việt Nam những năm tháng đất nước còn lầm than, vất vả nhưng đối với người phụ nữ, sự vất vả đó dường như càng nặng nề hơn. Từ đó, các nhà thơ, nhà văn luôn hướng về những phụ nữ có số phận bất hạnh, thiệt thòi, đau khổ. Họ thông cảm, khóc thương cho thân phận nhỏ bé. Với cái nhìn nhân đạo của mình, các nhà thơ, nhà văn đã làm nổi bật lên những phẩm chất cao quý sáng ngời của người phụ nữ Việt Nam. Và trong chương trình Ngữ Văn THCS, hình tượng người phụ nữ xuất hiện trong các tác phẩm với hai nội dung sau:
1, Hình ảnh người phụ nữ trong xã hội xưa.
2, Hình ảnh người phụ nữ trong xã hội ngày nay được biểu hiện qua cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là trong công cuộc bảo vệ quê hương, đất nước.
Người phụ nữ thường xuất hiện trong văn học thường là những người xinh đẹp. Từ vẻ đẹp ngoại hình cho đến tính cách. Đều là đẹp nhưng mỗi người lại mang một vẻ đẹp khác nhau, mỗi thân phận có một đặc điểm ngoại hình riêng biệt. Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” là người phụ nữ “thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”khiến Trương Sinh phải đem lòng thương mến mà bỏ ra trăm lạng vàng rước nàng về làm dâu. Tuy không được Nguyễn Dữ đặc tả rõ nét nhưng ta có thể hình dung vẻ đẹp của nàng là vẻ đẹp thuần khiết, bình dị, dân dã, đôn hậu của người thôn nữ chất phác.Còn vẻ đẹp của cô gái trong “Bánh trôi nước” lại vô cùng trong sáng, đầy đặn, hoàn mĩ đến từng chi tiết, “Thân em vừa trắng lại vừa tròn”- đó chính là chuẩn mực của cái đẹp theo quan niệm thẩm mĩ truyền thống của nhân dân ta về một vẻ đẹp viên mãn. Không chỉ có vẻ đẹp thiên phú, những người phụ nữ còn thể hiện mình là người đẹp lẫn cả trong tâm hồn, tấm lòng.Nàng Vũ Nương là người phụ nữ thuỷ chung, son sắt trong tình nghĩa vợ chồng: Trong cuộc sống vợ chồng, biết Trương Sinh vốn có tính đa nghi, nên nàng luôn “giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa”. Nàng luôn giữ cho tình cảm gia đình đầm ấm, yên vui. Nàng là một người vợ hiền thục, khôn khéo, nết na đúng mực. Bởi có hiếu nên Vũ Nương đã chăm sóc mẹ chồng một cách chu đáo trong những ngày Trương Sinh đi lính. Sự săn sóc tận tâm của nàng khiến cho mẹ chồng không khỏi xúc động. Có lòng tự trọng, Vũ Nương mới gieo mình xuống dòng nước sông Hoàng Giang để rửa sạch oan khuất, giữ trọn chữ trinh tiết cho đời mình.Còn trong bài thơ “Bánh trôi nước” lại tiếp tục khẳng định phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ vẫn giữ nguyên mặc dầu phải trải qua bao nhiêu khó khăn, gian khổ.
Trong xã hội ngày nay, nhất là trong cuộc sống hàng ngày, người phụ nữ hiện lên với sự dịu dàng, hiền lành, biết hy sinh, yêu thương chồng, con hết mực… Văn bản “Cổng trường mở ra” đã cho chúng ta thấy điều đó: người mẹ với sự dịu dàng, biết chăm lo cách chu đáo, cẩn thận cho con cái. Thao thức không ngủ vì lo lắng cho con nhưng vẫn luôn tin tưởng vào con mình. Luôn thể hiện tình yêu thương qua lời động viên, khích lệ con vững bước và tự tin khi đặt chân vào một thế giới mới. Cũng như thế, văn bản “Mẹ tôi” qua bức thư của người cha gửi En-ri-cô đã phác họa cho người đọc chân dung của một người mẹ với tình yêu thương con tha thiết, sâu sắc và cao cả. Người mẹ hiền hậu và bao dung, tuy rất bình dị nhưng ẩn sâu trong đó lại vô cùng lớn lao. Khi con ốm, mẹ luôn tận tụy, sốt sắng lo lắng suốt ngày đêm chăm sóc cho cậu bé. Đây cũng là hình ảnh quen thuộc của tất cả những bà mẹ khác: cao cả, hy sinh và yêu thương con vô bờ bến, “bỏ hết một năm hạnh phúc” để có thể “tránh cho con một giờ đau đớn” hay là “mẹ có thể đi ăn xin để nuôi con, có thể hi sinh tính mạng để cứu sống con”.
Còn trong chiến tranh, vẻ đẹp của người phụ nữ lại càng được tăng thêm khi họ sẵn sàng “giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”. Người phụ nữ Việt Nam vẫn luôn thương yêu và gửi gắm khát vọng cho con cháu gắn liền với tình yêu cách mạng, tình yêu đất nước. Với bài thơ “Bếp lửa”,người bà hiện lên với hình ảnh chắt chiu, cẩn thận tích góp từng hơi ấm lúc đất nước đang trong cảnh đói kém, loạn lạc. Bà vẫn âm thầm với khói bếp hun nhèm mắt cháu mà đem tấm lòng già cả của mình, nuôi dưỡng cháu hay cũng chính là mầm non tương lai của đất nước để mong phát triển dân tộc.Bà là hình ảnh điển hình của người phụ nữ Việt Nam, can đảm mạnh mẽ, đã hi sinh tình riêng đặt tình chung lên trên. Ngay cả khi “giặc đốt làng”, bà cũng “dặn cháu đinh ninh” rằng nếu có viết thư cho bố chớ kể này kể nọ. Vậy là bao nhiêu khó khăn, bao nhiêu nỗi đau và những cơ cực túng thiếu bà đã ghim lại trong lòng mình để làm hậu phương vững chắc nơi tiền tuyến. Tình cảm của bà dành cho cháu gắn liền với những hy sinh thầm lặng của bà cho cách mạng, cho đất nước, thể hiện tình yêu cháu cũng như tình yêu đất nước sâu sắc. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm qua bài “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” lại bộc lộ tình cảm của người mẹ Tà Ôi qua những công việc và ước mơ của người mẹ. Cho dù phải “giã gạo”, “tỉa bắp”, phải “chuyển lán”, “đạp rừng” hay phải “giành trận cuối”, người mẹ Tà Ôi vẫn luôn địu con trên lưng. Tình yêu con của người mẹ đã được gắn liền với tình yêu bộ đội, tình yêu làng xóm và tình yêu đất nước.Cái riêng hoà trong cái chung cứ ngân vang trong lời ru lắng sâu tình cảm “Mẹ thương Akay, mẹ thương bộ đội”. Niềm tin, tình yêu tổ quốc và khát vọng tự do, độc lập mẹ gửi gắm vào giấc mơ của Akay: “Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ/ Mai sau con lớn làm người tự do”. Lời ru của mẹ nuôi con ngày một lớn khôn đó là những chiến công thầm lặng mẹ đã cống hiến cho dân tộc, góp phần biến giấc mơ của Akay thành hiện thực. Những việc làm thầm lặng hằng ngày của mẹ tuy giản dị song vô cùng có ý nghĩa, là biểu hiện tấm lòng của hậu phương dành cho tiền tuyến. Chính những điều đó đã nâng tầm vóc hình tượng người phụ nữ trở thành một biểu tượng cao đẹp.
Có ai đó nói rằng: “Người phụ nữ là một nửa thế giới”. Và quả thật, họ đã đi vào những trang viết chảy suốt trong văn học từ trước đến nay, để rồi không phải làm nên một nửa, mà là trọn vẹn tấm hình trong sâu thẳm tâm hồn thế hệ người đọc hôm nay và cả mai sau:
“Chị em tôi tỏa nắng vàng lịch sử
Nắng cho đời nên cũng nắng cho thơ”.