Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phân tích hình ảnh lũ bán nước và cướp nước trong "Hoàng Lê Nhất Thống Chí"

3 Xem trả lời
Hỏi chi tiết
3.204
2
4
Anh Đỗ
01/11/2019 21:35:06
Hoàng Lê nhất thống chí” một tác phẩm văn xuôi ghi lại những sự kiện lịch sử cụ thể và sinh động về xã hội Việt Nam thời Lê - Trịnh. Tác phẩm là một bức tranh khái quát rộng lớn về những rối ren lục đục, những thối nát đồi bại trong cung vua, phủ chúa. Hồi thứ 14 của tác phẩm đã kể lại cuộc xâm lược của giặc Thanh, sự thảm hại của chúng cùng bè lũ tay sai bán nước, đồng thời ca ngợi tài quân sự của anh hùng Nguyễn Huệ.
Nước ta, một nước nhỏ bên cạnh một nước lớn, dân tộc liên tục đứng lên chống bọn xâm lược phương Bắc. Lịch sử đã ghi những chiến công oanh liệt: chống Tống, đánh Nguyên, diệt Minh...
Tướng Tôn Sĩ Nghị thống lĩnh 10 vạn quân qua cửa ải, vượt núi băng rừng ngày đi đêm nghỉ thẳng tiến về Thăng Long trong thế thừa thắng dễ dàng, không hề gặp một sự chống cự nào của đối phương. Chính vì thế Tôn Sĩ Nghị và tướng sĩ kiêu căng, chủ quan coi thường người Nam. Tướng tá “ngày ngày chơi bời tiệc tùng, không hề để ý gì đến việc quân”, quân lính không có kỉ luật đi lại lung tung. Chúng còn huênh hoang khoác lác tuyên bố sẽ kéo quân vào tận sào huyệt Tây Sơn bắt sông quân tướng Nguyễn Huệ. Chính người cung nhân cũ của Thái hậu cũng nhận thấy thái độ chủ quan khinh địch của Tôn Sĩ Nghị.
Vì thế khi quân Tây Sơn tiến đánh, quân tướng nhà Thanh không kịp trở tay và thất bại thảm hại. Khi chạm trán với quân Tây Sơn, quân Thanh “trông thấy bóng đã bỏ chạy”, nhưng chúng vẫn bị quân Tây Sơn “bắt sống hết, không tên nào trốn thoát”, ởlàng Hà Hồi, bị bao vây, quân Thanh “ai nấy rụng rời sợ hãi, liền xin ra hàng, lương thực khí giới đều bị quân Nam lấy hết”. Đồn Ngọc Hồi, trước sức tấn công như vũ bão của quân ta “quân Thanh chống không nổi, bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết”. Tên thái thú sầm Nghi Đống đã tự thắt cổ chết. Tôn Sĩ Nghị “sợ mất mặt, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp” nhằm hướng bắc mà chạy. Hàng vạn quân lính bỏ chạy tán loạn, xô đẩy nhau rơi xuống sông chết đến nỗi nước sông Nhị Hà bị tắc nghẽn không chảy được.
Bên cạnh hình ảnh thảm hại của bọn cướp nước là hình ảnh đớn hèn nhục nhã của Lê Chiêu Thống cùng bè lũ bán nước. Chúng rước quân Thanh sang tiêu diệt Tây Sơn, nhưng chúng không ngờ quân Thanh sang xâm lược nước ta, bắt chúng “đương lấy” việc dẹp quân Tây Sơn, còn quân Thanh chỉ “lảng vảng ở bên bờ sông, lấy thanh thếsuông để mà doạ dẫmmà thôi”. Lê Chiêu Thống đã thân hành đến doanh trại để cầu xin Tôn Sĩ Nghị xuất quân. Đến khi quân tướng nhà Thanh tháo chạy, Lê Chiêu Thống cùng bè lũ bán nước cũng chạy lên phía bắc hòng theo gót bọn ngoại bang, cầu xin sự che chở. Cuộc “hội ngộ” của Thông và Nghị ở cửa ải phía Bắc càng thể hiện rõ sự thất bại thảm hại của thầy lẫn tớ. Trong lời từ biệt, chủ tớ cùng nói lời sĩ diện hảo, Thống “xin ở lại đất nước thu nhặt dân binh, để tính việc nổi lên chuyến khác”. Nghị thì hứa: “Nguyễn Quang Trung chưa diệt, việc này còn chưa thôi”.
Đối lập với hình ảnh thảm hại của bọn cướp nước và bè lũ vua quan bán nước là hình ảnh oai hùng hiên ngang của người anh hùng Nguyễn Huệ. Lần thứ ba, Nguyễn Huệ tiến quân ra Bắc đánh tan hơn mười vạn quân xâm lược nhà Thanh. Trước khi cất quân đánh dẹp quân giặc, Nguyễn Huệ đã “tế cáo trời đất cùng các thần sông thần núi” lên ngôi hoàng đế. Nguyễn Huệ tổ chức lại quân đội, sai tướng ở Nghệ An kén lính và chưa mấy lúc đã có hơn một vạn quân tinh nhuệ. Quân đội được tổ chức chặt chẽ chia làm bốn doanh: tiền, hậu, tả, hữu còn lính mới tuyển thì làm trung quân.
Nguyễn Huệ - một vị tướng mưu lược có tài cầm quân, ta hãv nghe lời tâu của người cung nhân cũ, một người xem Nguyễn Huệ ỉà “giặc “Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện, dũng mãnh.,, ẩn hiện như quỉ thần, không ai có thể lường biết... Thấy hắn trỏ tay đưa mắt ai nấy đã phách lạc hồn xiêu, sợ hơn sợ sấm sét”.
Đúng vậy, Nguyễn Huệ - một người chỉ huy có đầy đủ bản lĩnh trong chiến đấu, trước khi xuất quân ông đã quả quyết với tướng lĩnh: “lần này ta ra, thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh- đã có tính sẵn chẳng qua mươi ngày có thểđuổi được quân Thanh”. Và Nguyền Huệ đã hứa: “hẹn đến ngày mồng 7 năm mới thì vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Các người nhớ lấy, đừng cho là ta nói khoác”. Lời hứa dứt khoát, tự tin và đúng như vậy, cuộc tiến quân thần tốc: tối 30 tháng chạp mở tiệc khao quân lên đường, mồng 5 năm mới đã vào Thăng Long trong tiếng reo hò đại thắng của quân sĩ.
Các tác giả cũng kể lại cách đánh rất thần tình của Nguyễn Huệ như tìm cách phô trương thanh thế lúc ban đầu làm cho giặc khiếp sợ phải xin hang, khi thì dùng nghi binh làm cho chúng hoang mang hoảng loạn. Nguyễn Huệ còn sáng tạo những cách đánh rất tài tình như dùng ván ghép lại, bên ngoài dùng rơm đắp nước phủ kín, các cảm tử quân xông lên giáp lá cà để giết giặc.
Trong trận chiến, người chỉ huy ấy luôn luôn xông pha nơi hiểm yếu, “cỡi voi đi đốc thúc” quân lính. Với quân sĩ, Nguyễn Huệ là người tướng biết khích lệ động viên họ trong chiến đấu. Ông khêu gợi lòng căm thùgiặc, niềm tự hào về ông cha đã bao đời thắng giặc ngoại xâm, kêu gọi binh sĩ đồng tâm hiệp lực để dựng lên công lớn. Đối với tướng dưới quyền như Ngô Văn Sở... đã bỏ Thăng Long rút quân về Tam Điệp, ông không quở phạt. Vì thế tướng sĩ trên dưới một lòng, quân đội kỉ luật nghiêm minh, tuyệt đối tin tưởng ở người cầm quân.
Nguyễn Huệ không những là nhà quân sự thiên tài mà còn là nhà chính trị, nhà ngoại giao có tầm nhìn xa trông rộng. Khi tiến đánh quân Thanh, ông cũng đãnghĩ đến mối quan hệ giữa hai nước Việt - Trung. Ông trù tính trước: bị thua trận chúng “ắt phải làm thẹn mà lo việc báo thù”, lúc ấy Ngô Thì Nhiệm sẽ là người dùng lời lẽ khéo léo ngoại giao để dẹp cảnh binh đao.
Câu chuyện lịch sử được ghi chép lại bằng những chi tiết cụ thể, sinh động và hấp dẫn. Trước những chiến công hiển hách của Nguyễn Huệ, các tác giả đã ca ngợi người anh hùng của dân tộc. Hình ảnh người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ mãi mãi là ngôi sao sáng chói trong lịch sử dân tộc ta.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
0
3
Đỗ Dũng
01/11/2019 21:35:23
Chuyện vua Quang Trung đại phá quân Thanh, ngày nay, hẳn chẳng mấy ai còn không biết. Người dân Việt từ lâu đã từng thân thiết và tự hào với những cái tên Hà Nội, Ngọc Hồi, Khương Thượng, Đống Đa ... Nhưng hình như không phải ai cũng biết rằng, phần lớn những gì vẫn được truyền tụng về chiến công oai hung đó lại không được lấy trực tiếp từ chính sử. Phải đâu ai cũng tỏ tường rằng những hiểu biết lâu nay về sự kiện đại phá quân Thanh chính ra lại chứa đựng nhiều nhất trong một tác phẩm vẫn được coi là tiểu thuyết, cuốn sách mang tên Hoàng Lê Nhất Thống Chí của dòng họ Ngô Thì ở làng Tả Thanh Oai (nay thuộc về Hà Nội, chứ không phải Hà Tây như nhiều sách đã ghi lầm). Quả thế, nếu muốn được thở hít lại bầu không khí như của những tháng ngày có chiến thắng tưng bừng đó thì không gì hơn là cùng đọc lại Hồi thứ mười bốn trong thiên tiểu thuyết lịch sử của văn phái họ Ngô.
Thế nhưng trong chủ đích của người viết Hoàng Lê Nhát Thống Chí thì Hồi thứ mười bốn này được soạn ra không cốt để ngợi ca chiến thắng của Quang Trung. Ai còn hồ nghi xin đọc lại hai vế đối mở đầu, người làm sách, theo thường lệ của tiểu thuyết chương hồi, vẫn muốn qua đó để tự tóm tắt nội dung của toàn hồi truyện:
Rõ ràng, theo tác giả, đây là một đoạn truyện kể về vua Lê, ông nhìn từ phía vua Lê, theo đúng tinh thần "Hoàng Lê thống nhất". Nên trong đoạn trích này của thiên tiểu thuyết, nếu có ai được gọi chỉ bằng một chữ "vua" thì kẻ đó nhất định phải là Lê Chiêu Thống , nếu có quân đội nào được gọi là "nghĩa binh" (quân chính nghĩa) thì đó cũng chỉ có thể là "quân đội nhà Lê (trong khi lực lượng thực đáng gọi là nghĩa quân, nghĩa binh, quân đội Tây Sơn lại chỉ được gọi chung là "quân lính", "quân sĩ", không hề có chữ "nghĩa" nào bên cạnh). Vào khoảng cuối đoạn trích, người viết còn ghi lại chi tiết kể về cuộc gặp gỡ giữa mẹ con cua Lê với người thổ hào tại một sơn trại thuộc vùng Hòa Lạc. Đấy không phải một sự cố ý tạo ra tình huống hài hước, để người đọc có dịp nhau cười một kẻ ngu trung. Trái lại, tác giả dường như đã gắng công để cuộc gặp gỡ có ánh lên vẻ cao đẹp của một tấm lòng thần tử tận tụy, trung trinh, ngay cả khi đấng quân vương của mình đang cơn khốn khó. Trong chi tiết này, thấy có cả mừng tủi lệ rơi, cả cơm gà vội vàng thết đãi, cả lối tắt đưa vua chạy loạn ... tác giả như cố nhắn rằng: đối với cái triều đại đa tàn kia, lòng người còn chưa nỡ bỏ, và dẫu vua Lê có lâm vào hoạn nạn thì trong đời vẫn chưa hết mối cô trung …
Có nghĩa là, xét về mặt lập trường chính trị, tác giả Hoàng Lê Nhất Thống Chí đứng về phía đối địch với phong trào khởi nghĩa Tây Sơn. Song may mắn làm sao họ Ngô đã không thể thắng chính mình. Mối tình cảm chính trị ấy không thắng nổi tình yêu sự thật, không thắng nổi lương tri, lương tâm của người biết nhận ra sự thật và tha thiết muốn nói lên sự thật. Tình cảm chính trị ấy đã không thể chuyển hóa thành sức mạnh văn chương, không đủ sức chi phối nội dung của văn chương. Không biết người viết Hồi thứ mười bốn của Hoàng Lê Nhất Thống Chí có ngờ rằng, với công trình nghệ thuật này, mình đang viết bản án dành cho chính cái chế độ mình vẫn hằng tôn kính? Và con người phù Lê ấy liệu có tự giác nhận ra rằng mình đang tấu lên khúc ca dành cho những người đang kết thúc số mệnh lịch sử của chính nhà Lê.
Nhưng đấy chính là sự thật. Một sự thật vô cùng thú vị khi ta tiếp nhận, thưởng thức và suy ngẫm về tác phẩm Hoàng Lê Nhất Thống Chí.
Tuy nhiên tác giả của những trang viết ta đang nói tới là một nhà văn, một người làm nghệ thuật. Tư cách nghệ sĩ không cho phép ông kể sự thật một cách phiến diện, giản đơn. Hồi chuyện được bắt đầu từ phía có vẻ như ngược lại. Đội quân xâm lược nhà Thanh thoạt nhiên được nói tới cứ y như một đạo hung binh, với sức mạnh lay thành phá ải, không gì có thể đương đầu: "Lại nói Tôn Sĩ Nghị sau khi đem quân ra cửa ải, xuyện rừng vượt núi như giẫm đất bằng, ngày đi đêm nghỉ, không phải lo lắng gì, kéo thẳng một mạch đến thành Thăng Long, không mất một mũi tên, như vào chõ không người". Cứ xem đây thì chống chọi lại một đạo binh như thế này khác nào đem trứng chọi đá? Chưa hết, ngay liền sau đó, tác giả lại bồi thêm: "Từ xưa các nhà cầm quân chưa có khi nào được dễ dàng như thế".
Nhưng sự dễ dàng chưa từng có dó, chính nó lại khiến cho những người từng trải, biết suy nghĩ có lý để mà ngờ vực. Từ rất lâu trước đấy, người xưa đã hiểu rằng cái gì đến độ thái quá, đến tột cùng thì thế nào cũng gặp phải sự biến. "Cùng tắc biến" (đến tận cùng thì phải thay đổi). Nhưng mà biến theo chiều trái lại. Và cái mầm mống của sự biến ấy, tác giả đã không để cho người đọc phải chờ đợi lâu. Cổ nhân từ xưa đã dạy: "thắng không kiêu", Nhưng đạo quân của Tôn Sĩ Nghị chưa kịp thắng trận nào cho ra thắng đã quá vội kiêu: "quân lính các đồn tự tiện bỏ cả đội ngũ, đi lại lang thang, không có kỷ luật gì cả ... Bọn tướng tá cũng ngày ngày chơi bời tiệc tùng, không hề để ý đến việc quân". Mầm mống của bại vong đã được nứt nanh từ đây.
Chuyện trở nên rõ ràng hơn qua lời của người cung nhân cũ đến từ phủ Trường Yên. Không rõ những lời nói ấy về mặt sử học thì chính xác và sâu xa tới mức nào, chứ về mặt văn chương thì chi tiết này cực thú. Không hẳn chỉ vè những lời nói của người từng là cung nữ ấy đã phác họa ra đại cục, thắng lợi của vua Lê, nếu có, cũng chưa mang ý nghĩa gì lớn, mà mối nguy cho triều Lê thì quả đã như mồi lửa âm ỉ bên trong trường vách. Cũng không hẳn chỉ vì những câu nói ấy đã sớm đem lại ấn tượng về một Nguyễn Huệ bách thắng, một Nguyễn Huệ kiêu hùng, từ trước khi Nguyễn Huê bằng thịt bằng xương xuất hiện trên chương truyện: Xem hắn ra Bắc vào Nam, ẩn hiện như quỷ thần, không ai có thể lường biết. Hắn bắt Hữu Chĩnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn ... Thấy hắn trở tay, đưa mắt là ai nấy đều phách lạc hồn xiêu, sợ hơn sợ sấm sét. E rằng chẳng mấy lâu nữa hắn lại trở ra, tổng đốc họ Tôn đem thứ quân nhớ nhà kia mà chống lại, thì địch sao cho nổi"? Âm vang của một chiến thắng hào hùng nghe như đã văng vẳng dần lên từ lời cảnh báo của cung nhân.
Cái thú văn chương trong chi tiết về người cung nhân còn có thể nhìn ra từ chỗ; nó cho thấy, hóa ra, một phụ nữ tầm thường, hèn mọn, bị vua ruồng bỏ, xa cung cấm đã lâu, thế mà còn thông hiểu binh tình gấp bội phần so với một Thái hậu "mẫu ghi thiên hạ" cao sang, quyền quý. Rồi đến khi bà Thái hậu đem chuyện ấy nói với vua, vua nói lại vơi Tôn Sĩ Nghĩ thì ta còn vỡ lẽ: những kẻ nắm binh quyền dương dương tự đắc kia, còn không có nổi một kiến thức đàn bà!
Vậy là một người phụ nữ vô danh cũng đã thừa khả năng mở mắt cho cả một bộ sâu triều đình, vua quan, tướng tá về cách đánh, tình thế, cách cầm quân. Lời nói của cung nữ xưa quả đã khiến Thái hậu phải "giật mình" và vua Lê "hoảng sợ". Nhưng cũng chỉ đến thế thôi. Tác giả Hoàng Lê Nhất Thống Chí nhận ra và đã muốn chúng ta cùng thấu hiểu: Không gì có thể đem lại cho bè lũ bạc nhược kia sức mạnh trong ý chí và hành động. Bọn chúng đã không hành động, dù cho có lo lắng có giận dữ trách mắng nhau. Bởi vì nỗi lo âu, lời quát nạt rồi cũng chóng qua đi. Và bọn người đó lại tiếp tục nằm ườn ra trên lạc thú, lười nhác tự dối lừa mình trong ý nghĩ: "Cần phải tính toán cho chu đáo không thể hấp tấp và uể oải đợi chờ đến sang xuân, vào ngày mùng sáu thì sẽ xuất quân, như vậy cũng không còn xa gì nữa"...
1
1
♥️ linhlinh
01/11/2019 22:20:33
mấy bạn đọc kĩ đề hộ mik nhá

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Đấu trường tri thức | Lazi Quiz Challenge +500k
Gửi câu hỏi
×