Dàn ý:
1. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả, tác phẩm:
- Trần Quang Khải (1241-1294), một vị danh tướng tài ba đời Trần, một nhà thơ lớn của dân tộc, các sáng tác của ông thường hàm xúc, ý nghĩa và để lại giá trị vô cùng to lớn trong nền thơ ca dân tộc. Phò giá về kinh chính là một trong những bài thơ đặc sắc trong kho tàng thơ ca của Trần Quang Khải. Bài thơ được sáng tác trong lúc vua và quân dân nhà Trần giành chiến thắng lấy lại được kinh thành Thăng Long và trên đường trở về kinh đô.
– Bài thơ được Trần Quang Khải viết theo thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt với lời thơ giản dị, nhưng đầy hàm xúc ý nghĩa bằng chữ Hán, bản dịch của Trần Trọng Kim được nhiều người biết đến nhất.
2. Thân bài
– Hai câu thơ đầu:
+ Cảm xúc chiến thắng trước một đội quân giặc ngoại xâm được đánh giá là vô cùng hung hãn khiến cho Trần Quang Khải không khỏi xúc động, không miêu tả quá dài dòng, chỉ bốn câu thơ thôi cũng đã đúc kết được sự tự hào và tâm tư của vị tướng kiệt xuất.
+ Hai câu thơ đầu và hai chiến thắng lẫy lừng chấn động đất trời, để đánh dấu trong việc đánh tan giặc Nguyên đó là chiến thắng Chương Dương và Hàm Tử vào năm 1285.
+ Đối với tình hình quân và dân nhà Trần lúc bấy giờ, chỉ nghe đến cái tên Chương Dương thôi cũng đã vô cùng tự hào và cảm phục trước ý chí chiến đấu của quân ta dưới sự chỉ huy vô cùng sáng suốt của danh tướng Trần Quang Khải.
+ Mặc dù không miêu tả lại cảnh chiến tranh với gươm đao, với sự ác liệt của cuộc chiến mà tác giả chỉ kể lại các sự kiện, nhưng vẫn đưa người đọc như đang sống giữa cuộc chiến, sống giữa khi thế hào hùng và cảm giác giác chiến thắng, khải hoàn đầy khí thế của vua và dân nhà Trần.
=> Chiến thắng Chương Dương ta đã đánh bại được quân thù đến trận Hàm Tử ta đã bắt sống được cả tướng giặc, chính điều này đã chứng minh được tuy rằng từ ngữ giản dị nhưng vô cùng mạnh mẽ rắn rỏi.
– Hai câu thơ cuối:
+ Trần Quang Khải muốn gửi đến toàn dân tộc một điều rằng: nền thái bình đó chỉ được tạo ra khi mà toàn thể dân tộc đồng lòng, đoàn kết dồn hết lòng dựng xây và bảo vệ đất nước mà thôi.
+ Với hai câu thơ vô cùng ngắn gọn nhưng súc tích, chất chứa nhiều xúc cảm và tâm tư của nhà thơ.
+ Trần Quang Khải không đắm chìm trong chiến thắng ông đã có những lo nghĩ cho tương lai đất nước, ông muốn cuộc sống hòa bình, đất nước còn tồn tại và lưu danh đến muôn đời sau: “Non nước ấy ngàn thu”.
=> Nhưng nền thái bình đâu phải tự dưng mà có được, nó cần được sự đồng lòng, đồng sức, đoàn kết với lòng tự hào và lòng tự hào đất nước nồng nàn, đấy chính là nỗi niềm của Trần Quang Khải.
3. Kết bài
- Bài thơ với lời thơ ngắn gọn nhẹ nhàng, câu từ gần gũi không khoa trương phóng đại đã đem đến cho người đọc về một tinh thần dân tộc vô cùng hào hùng và chiến thắng vẻ vang oanh liệt, giá trị của bài thơ vẫn còn vang vọng cho đến bây giờ, đây chính là kim chỉ nam để mỗi chúng ta cần tu dưỡng tài năng đạo đức cống hiến cho đất nước.
Bài làm:
Những trang lịch sử chống giặc ngoại xâm bảo vệ quê hương đất nước của dân tộc Việt Nam thật oanh liệt, hào hùng. Người viết nên những trang sử vẻ vang ấy chính là bao vị anh hùng và nhân dân các thời đại, mà ở thời đại nào, lòng yêu nước nơi họ cũng tỏa sáng rực rỡ. Thượng tướng thái sư Trần Quang Khải là một trong những vị anh hùng như thế, ông đã đem trọn tài năng, phẩm chất, khí tiết để dâng hiến cho non sông, góp phần đánh tan quân giặc xâm lược Mông - Nguyên mạnh như hổ đói, khi chúng vào giày xéo mảnh đất quê hương. Bài thơ "Phò giá về kinh" của Trần quang Khải đã thể hiện lòng yêu nước cháy bỏng của ông và một khát vọng mạnh mẽ muốn xây dựng quê hương giàu mạnh đến ngàn thu:
Đoạt sáo Chương Dương độ
Cầm Hồ Hàm Tử quan
Thái bình tu trí lực
Vạn cổ thử giang san.
Bài thơ trên đây có một hoàn cảnh ra đời khá đặc biệt, mà muốn hiểu hết giá trị của nó, ta cần nhắc tới: Đó là năm 1285, sau chiến thắng vang dội ở Chương Dương và Hàm Tử, kinh đô được giải phóng. Trong niềm vui chiến thắng rộn ràng, Trần Quang Khải đi đón Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông về Thăng Long. Hào khí Đông A của thời đại nhà Trần ở lúc thịnh nhất, Trần Quang Khải đã tràn trề cảm xúc tự hào và tin tưởng khi sáng tác bài thơ này. Nhà thơ chọn thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt cực kỳ ngắn gọn, hàm súc để thể hiện niềm vui mạnh mẽ trong lòng ông.
Cảm nhận đầu tiên khi đọc bài thơ là giọng thơ sôi nổi, dứt khoát với cách ngắt nhịp 2/3, khiến ta thấy ngay đây là giọng thơ của một nhà thơ võ tướng. Hai động từ mạnh "đoạt" và cầm" miêu tả chiến thắng oanh liệt của quân dân ta với niềm tự hào bất tận, vì chính nhà thơ là người giữ vai trò lãnh đạo hai trận chiến khốc liệt mà vinh quang ở Chương Dương và Hàm Tử. Cách liệt kê hai địa danh khiến cho ý thơ thêm hào hùng. Phép đối của thơ ngũ ngôn tứ tuyệt thật chuẩn, ngay cả ở phần dịch thơ cũng chứa đầy hào khí:
Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm Tử bắt quân thù.
Người nam nhi thời Trần đã lập nên nghiệp lớn, dẫn đầu binh sĩ đánh bại cả một đoàn quân bạo tàn từng nghênh ngang cho rằng gót ngựa chúng đi tới đâu thì ngay cả cỏ cũng không mọc nổi. Thế nhưng qua lời tuyên bố ngắn gọn như trên, vị anh hùng thời đại nhà Trần đã tuyên bố về chiến thắng của nhân dân Đại Việt trước bọn chúng. Đó là do sức mạnh vô địch của tinh thần đoàn kết, lòng yêu nước nồng nàn của tướng sĩ trong cuộc chiến đấu cam go. Nhịp điệu nhanh mạnh của câu thơ thể hiện đúng không khí chiến thắng. Và lời thơ cất lên như một khúc khải hoàn ca làm nức lòng người. Có thể nói,nhà thơ đã viết lên lời ký sự ngắn gọn mà nóng bỏng ngay trong phút giây đáng tự hào nhất của thời đại Đông A.
Chiến thắng giặc thù rồi, khát vọng của cả dân tộc và của triều đình đâu dừng lại. Nhà thơ nói lên khát vọng ấy:
Thái bình tu trí lực
Vạn cổ thử giang san.
Tức: Thái bình nên gắng sức
Non nước ấy nghìn thu
Hai câu thơ đầu nói về chiến tranh, thì hai câu thơ cuối chuyển ngay sang nói về thời kỳ hòa bình và nhiệm vụ mới của dân tộc. Đây là sự chuyển mạch đột ngột nhưng hợp lý của bái thơ, thế là đã chấm dứt những ngày tháng "ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa" (Trần Quốc Tuấn), nhưng quân dân không thể ngủ quên trên chiến thắng. Khát vọng mạnh mẽ nhất của nhà thơ, cũng là của dân tộc là làm sao dựng xây lên được một quốc gia hùng mạnh,no ấm, tồn tại tới ngàn năm. Giọng thơ hai câu sau không còn nhanh mạnh, dồn dập như ở hai câu đầu, mà chuyển sang trầm lắng suy tư, như gói trọn bao chiêm nghiệm, khao khát ấp ủ của người anh hùng yêu nước trong một giai đoạn mới. Đó cũng là lời nhắn nhủ tràn đầy niềm tin và hi vọng về tương lai đất nước sẽ đẹp giàu, mạnh mẽ, không kẻ thù ngoại xâm nào dám bén mảng đến. Ta thấy ở đây không chỉ là niềm tin và khát vọng, mà còn là trí tuệ uyên thâm, tầm nhìn xa rộng của một người cầm quân đánh giặc và lãnh đạo nhân dân xây dựng quê hương.
Bài thơ tứ tuyệt thật hàm súc và độc đáo, cảm xúc cô đọng, dồn nén, với từng câu, từng chữ đều toát lên niềm tự hào bất tận và khát vọng vĩ đại dựng xây giang san. Còn nguyên vẹn trong bài thơ là chí khí của một người anh hùng vĩ đại thời Trần, cho đến ngày hôm nay, sự cao cả của tấm lòng yêu quê hương đất nước và mơ ước đẹp của nhà thơ vẫn là điều mà mỗi con người Việt Nam đang bền bỉ thực hiện, để "non nước ấy ngàn thu" vững bền và ngày một phát triển.