Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Vẻ đẹp nguyễn trãi trong bài cảnh ngày hè và phân tích triết lí sống nhàn của nguyễn bỉnh khiêm trong bài thơ nhà

vẻ đẹp nguyễn trãi trong bài cảnh ngày hè và phân tích triết lí sống nhàn của nguyễn bỉnh khiêm trong bài thơ nhà

mogn mọi người làm giúp mk 

xin chân thành cảm ơn

2 trả lời
Hỏi chi tiết
493
0
0
Bông
26/11/2019 20:10:24
Nguyễn Trãi nhà thơ lớn, nhà văn hóa lớn của dân tộc Việt Nam. Ông để lại sự nghiệp văn học đồ sộ, phong phú. Qua hệ thống tác phẩm phong phú người đọc đã phần nào cảm nhận được vẻ đẹp trong tâm hồn nhân cách của Nguyễn Trãi. Vẻ đẹp tâm hồn đó được thể hiện trong nhiều bài thơ, và ta không thể không nhắc đến bài Cảnh ngày hè. Tác phẩm đã cho thấy tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống sâu sắc và hơn hết là tấm lòng lo cho dân, cho nước ngay cả trong lúc rảnh rỗi cũng không thôi cháy bỏng.
Trước hết, Nguyễn Trãi là người có lòng yêu thiên nhiên sâu sắc, vẻ đẹp tâm hồn đó ẩn sau bức tranh thiên nhiên mùa hè rực rỡ màu sắc và ngập tràn sức sống. Tình yêu được thể hiện ngay trong câu thơ mở đầu :
Rồi hóng mát thuở ngày trường.
Nguyễn Trãi hiện lên trong tâm thế thảnh thơi, thư thái trước tiên nhiên. Đây là một trong những ngày nhàn rỗi hiếm hoi trong suốt cả cuộc đời bộn bề công việc của ông. Chính trong khoảnh khắc nhàn tản ấy ông dành cho thiên nhiên, hòa mình vào vạn vật. Qua đó thể hiện tình yêu thiên nhiên sâu sắc của ông.
Không chỉ vậy, tình yêu thiên nhiên còn thể hiện ở cách cảm nhận thiên nhiên, cuộc sống hết sức tinh tế. Năm câu thơ tiếp, Nguyễn Trãi hiện lên là một người có tâm lòng tha thiết yêu thiên, cuộc sống :
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương.
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương
Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.
Ông đã rộng mở tâm hồn mình, vận dụng tất cả các giác quan để cảm nhận những chuyển động tế vi nhất của vạn vật xung quanh. Bằng thị giác, nhà thơ ngắm nhìn màu sắc của thiên nhiên: xanh của hoa hòe, đỏ của hoa lựu và ánh nắng đã nhạt của trời chiều. Bằng thính giác, bằng tất cả sự tinh tế ông lắng nghe tiếng ve ngân – thứ âm thanh đặc trưng của mùa hè, từng đàn ve ngân vang khúc ca mùa hạ; không chỉ vậy còn là tiếng “lao xao” của cuộc sống, của những làng chài. Ngoài ra, ông cảm nhận bằng khứu giác, những đóa sen ngát hương, một thứ hương thơm thanh nhã, cao sang ngập đầy trong không gian.
Bằng những cảm nhận hết sức tinh tế, tác giả đã gửi gắm tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống mãnh liệt. Nếu không có tình yêu thiên nhiên, có lẽ ông đã không cảm nhận được vẻ đẹp thiên nhiên sâu sắc đến vậy, không thể lắng nghe, đồng điệu với niềm vui cuộc sống ấm no, yên bình của những người dân quê.
Trong giây phút đắm say trước vẻ đẹp thiên nhiên, vẻ đẹp cuộc sống thanh bình, ấm no, nhân cách của một con người hết lòng vì nước lại được một lần nữa thể hiện qua hai câu thơ kết bài:
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương.
Tình yêu thiên nhiên, yêu đời của ông luôn gắn bó mật thiết với lòng yêu nước, thiết tha với nhân dân. Đọc thơ Nguyễn Trãi, cũng như trong chính cuộc đời ông, ta hiếm khi thấy ông thực sự có được phút giây nhàn nhã, thanh thản. Đúng như một nhà nghiên cứu đã nhận xét: “Ở đây, Ức trai tự dành cho mình quyền “rồi hóng mát thuở ngày trường” bởi niềm mơ ước, bởi mục đích lớn nhất của đời ông đã được thực hiện: dân ấm no, hạnh phúc”.
Câu lục ngôn kết lại bài thơ, ngắn gọn nhưng hàm súc, giàu ý nghĩa. Mong ước của Nguyễn Trãi thật giản dị mà vô cùng cao quý. Tác giả mong muốn có được cây đàn của vua Ngu Thuấn để gảy khúc Nam phong ca ngợi cuộc sống thái bình. Đồng thời ông cũng mong muốn triều đại của chúng ta cũng giống triều đại vua Ngu Thuấn thái bình, người dân của triều đại chúng ta cũng có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đủ đầy. Suốt cuộc đời Nguyễn Trãi, ông luôn mong cho dân ấm no, hạnh phúc, khát vọng ấy cho thấy tấm lòng ưu ái với dân, với nước trong con người Ức trai. Điều này ông đã nhiều lần tâm sự trong các bài thơ:
“Bui có một lòng âu việc nước
Đêm đêm thức nhẫn nẻo sơ trung”.
“Vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn
Dường ấy ta đà phỉ sở nguyền”.
Cảnh ngày hè đã việt hóa thơ Đường một cách sáng tạo và điêu luyện, kết tinh ở câu lục ngôn cuối bài, ngắn gọn, hàm súc mà giàu ý nghĩa. Ngôn ngữ giản dị, dùng nhiều từ Việt cổ, từ ngữ dân dã, dễ hiểu. Sử dụng linh hoạt các động từ, từ tượng thanh diễn tả thiên nhiên và cuộc sống con người. Hình ảnh thơ sống động, phong phú.
Qua bài thơ ngắn gọn, hàm súc ta không chỉ thấy một Nguyễn Trãi có tình yêu thiên nhiên với những cảm nhận hết sức tinh tế về thế giới xung quanh. Mà nổi bật hơn, đẹp đẽ hơn tính là tâm lòng ưu ái, luôn ngày đêm lo cho dân cho nước. Điểm kết tụ trong thơ Nguyễn Trãi là vì dân, cho dân. Cả cuộc đời ông cống hiến cũng chỉ cho nhân dân.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
0
0
Bông
26/11/2019 20:12:02
Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm từ khi về ở ẩn có nhiều bài viết về lối sống nhàn. Suốt bốn mươi hai năm vừa sống ẩn dật, vừa làm quan tại gia, ông luôn tự hào và kiên định về sự lựa chọn của mình. Nhàn là một bài thơ tiêu biểu cho quan niệm sống của nhà thơ.
Nhàn là một đề tài phổ biến trong văn học trung đại. Nói đến nhàn là nói đến một nét văn hoá tư tưởng sâu sắc của người xưa, đặc biệt là của tầng lớp trí thức phong kiến. Sống nhàn hợp với tự nhiên, hợp với tu dưỡng nhân cách, có điều kiện để sáng tác thơ văn, di dưỡng tinh thần. Sống nhàn đem lại niềm vui thanh cao, lành mạnh cho con người. Biết sống nhàn là biết tìm thú “nhàn”, một triết lí của người xưa.
Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong bài Nhàn thể hiện ở tinh thần tự do lựa chọn cách sống cho mình, tự khẳng định mình. Có như vậy nhà thơ mới có được phong thái ung dung thoải mái trong cuộc sống đời thường:
Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn, dầu ai vui thú nào.
Câu thơ mở đầu với ngôn ngữ thơ giản dị, không cần gọt giũa nhưng nhờ sự sắp xếp hợp lý, linh hoạt mà trở nên ý vị. Mai, cuốc, cần câu là những dụng cụ gắn liền với công việc lao động hàng ngày. Cách liệt kê: “Một..., một..., một...” tạo nhịp điệu khoan thai, diễn tả trạng thái ung dung của nhà thơ.
Câu thơ thứ hai nhấn mạnh ý câu một bằng từ “thơ thẩn”. Thơ thẩn là trạng thái thảnh thơi vô sự, trong lòng không gợn chút cơ mưu, tư dục. Cụm từ “dầu ai vui thú nào” nói lên ý thức không chạy theo công danh, phú quý, không chạy theo người khác, kiên định lối sống đã lựa chọn. Hai câu thơ gợi lên hình ảnh của một cư sĩ ẩn dật, an nhàn khiến ta nhớ đến cuộc sống của thi nhân Nguyễn Trãi “Ao cạn vớt bèo cấy muống; Đìa thanh phát cỏ ương sen”. Đó cũng là cuộc sống bình dị, dân dã của Nguyễn Trãi khi ông cáo quan về ở ẩn.
Hai câu thực tiếp tục triển khai ý của hai câu đề bằng quan niệm của tác giả về “dại” và “khôn”:
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chốn lao xao.
Nhà thơ tự cho mình là dại, người là khôn. Nhịp thơ 2/5 đều đặn tạo giọng điệu tự tin, pha chút mỉa mai. Các từ láy tượng hình (vắng vẻ), tượng thanh (lao xao) vốn giàu sắc thái biểu cảm, ở đây được dùng với nghĩa biểu trưng. Tìm “nơi vắng vẻ” nghĩa là nơi không phải chốn quan trường, không phải nơi “giành giật tư lợi” mà là nơi thích thú, nơi được sống thoải mái theo ý thích của mình. Đến “chốn lao xao” là đến chốn chợ lợi đường danh huyên náo, nơi con người chen chúc xô đẩy, giành giật hãm hại nhau. Hai câu thực sử dụng nghệ thuật đối rất chỉnh. Nhà thơ đem đối lập cuộc sống nhàn với cuộc sống đua chen, mưu danh lợi, phú quý ở thành thị để kiên định với lối sống mà ông đã lựa chọn: sống nhàn. Lối sống nhàn đem lại cái thú làm chủ bản thân mình, tự mình yên với mình, không bị ham muốn vật chất nó ràng buộc, lôi cuốn do đó dưỡng được tính tự nhiên, tức là tính ưa làm điều thiện. Nói như nhà thơ “Tâm an, thân rảnh, tay chân thư thái” (Trung tân ngụ hứng). Đó là thú vui thoải mái về tinh thần cũng như về thể xác.
Với Nguyễn Bỉnh Khiêm, sống nhàn không chỉ là cái thú vui được thoải mái về tinh thần, về thể xác mà còn là thú vui được hoà với nhịp điệu của thiên nhiên bốn mùa: Thú vui ấy, được nhà thơ nói đến trong hai câu luận:
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao.
Những chuyện sinh hoạt hàng ngày như “ăn”, “tắm” được nhà thơ diễn tả rất tự nhiên: Thu ăn măng trúc, đông ăn giá; Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao. Các chữ xuân, thu, hạ, đông được ngắt thành một nhịp, điệp từ ăn, tắm được lặp lại tới hai lần để nói đây là sinh hoạt quanh năm. Ăn, tắm đều thích thú, tự nhiên. Mùa nào thức ấy, thứ gì cũng có, cũng sẵn. Đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm thú vui của tâm, thân có thể tìm thấy trong thiên nhiên, kho trời chung lấy không ai cấm, dùng không bao giờ hết, cũng có thể tìm thấy trong sinh hoạt đời thường. Tuy đơn sơ đạm bạc nhưng cái gì cũng có, cũng sẵn chẳng nhọc lòng tìm kiếm mà lại được thảnh thơi, thoải mái “Giàu ăn thịt, khó ăn rau; Sang đi xe, nghèo đi bộ”. Và nhà thơ luôn tự hào về sự lựa chọn ấy của mình:
Cao khiết thuỳ vi thiên hạ sĩ
An nhàn ngã thị địa trung kiên (Ngụ hứng).
Dịch là:
Cao khiết ai là kẻ sĩ trong thiên hạ
An nhàn ta là tiên trong đời.
Một kẻ sĩ mà được sống như tiên, được làm tiên trong đời như Nguyễn Bỉnh Khiêm thì có mấy ai ?
Kiên trì với lối sống nhàn, Nguyễn Bỉnh Khiêm đem đối lập lối sống ấy với cuộc sống bon chen giành giật ở chốn thành thị “Thành thị vốn đua tranh giành giật” (thơ Nôm bài 19) và tỏ rõ thái độ coi thường công danh phú quý trong hai câu thơ kết :
Rượu đến cội cây, ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.
“Rượu ” là hình ảnh mang ý biểu tượng cho phú quý, công danh. Đến thì dùng, chẳng có gì phải bon chen, xu nịnh. Hơn nữa cái công danh sự giàu sang đó cũng chẳng khác gì một giấc chiêm bao. Hai câu thơ kết tác giả đã vận dụng sáng tạo điển cố, cách ngắt nhịp linh hoạt (1/3/3; 4/3) hình ảnh so sánh làm tính chất bi quan của điển cố mờ đi, nổi lên ý nghĩa coi thường phú quý. Từ đó, nhà thơ khẳng định lần nữa sự lựa chọn lối sống của mình, lối sống tự nhiên không chạy theo danh lợi.
Trong khuôn khổ của một bài thơ Nôm Đường luật thất ngôn bát cú, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã khẳng định lối sống mà ông lựa chọn: sống nhàn. Đó là lối sống tự nhiên, coi thường công danh phú quý. Tất nhiên quan niệm “sống nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải là lối sống thoát li thực tế đời sống mà vẫn gắn bó với cuộc đời. Lối sống ấy ta đã bắt gặp ở một số nhà nho như Nguyễn Trãi, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến. Đặc biệt, đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm sống nhàn không chỉ là một lối sống đẹp mà là một triết lí sống.
Nhàn là một bài thơ hay của Nguyễn Bỉnh Khiêm khẳng định niềm tin vào lối sống mà nhà thơ đã lựa chọn “sống nhàn”. Sống nhàn là một quan niệm sống, một triết lí nhân sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Qua bài thơ tác giả còn thể hiện sự gắn bó với cuộc sống bình dị, tài năng thơ Nôm cũng như những đóng góp của ông đối với ngôn ngữ thơ ca dân tộc: giản dị, tự nhiên, cô đọng, kết cấu và nhịp điệu câu thơ luôn biến đổi phù hợp với yêu cầu và mục đích diễn tả.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo