Điểm giống nhau
– Khẳng định chủ quyền, quyền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam.
– Thể hiện tình yêu quê hương, đất nước, đồng bào.
-Tố cáo tội ác của giặc, vạch trần bộ mặt gian xảo của chúng đồng thời ca ngợi, tôn vinh con người Việt Nam.
Mở đầu, bài phú viết: ” Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, quân điếu phạt chỉ vì khử bạo. Như nước Việt ta từ trước, vốn xưng văn hiến đã lâu. Sơn hà cương vực đã chia, phong tục bắc nam cũng khác. Từ Đinh, Lê, Lý, Trần gây nền độc lập, cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên hùng cứ một phương. Dẫu cường nhược có lúc khác nhau song hào kiệt đời nào cũng có…”. Phần giữa bản tuyên ngôn phản ảnh tình hình chống giặc giữ nước của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn trong quá trình kháng chiến mười năm gian khổ nhưng luôn chiến thắng và liệt kê sự hao binh tổn tướng của quân giặc. Cuối cùng, bài văn kết luận: ” Giang sơn từ đây mở mặt, xã tắc từ đây vững bền. Nền vạn thế xây nên chắc chắn, thẹn ngàn thu rửa sạch làu làu”.
Mở lời tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh trích dẫn bản tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ để dẫn chứng về sự độc lập, tự do dân chủ của dân tộc: ” Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc “. Có điều kỳ lạ và độc đáo nhất là bản tuyên ngôn độc lập 1776 của Hoa Kỳ do Tổng thống Thomas Jefferson (1743-1826) nhiệm kỳ 1801-1809, vị tổng thống thứ ba của nước Mỹ, sau Benjamin Franklin và George Washington soạn thảo và được Quốc hội thông qua, lại được một nhà tình báo của Mỹ tiền thân của CIA cung cấp cho Hồ Chí Minh bằng cách thả dù xuống chiến khu Việt Bắc trước ngày Tổng khởi nghĩa tháng 8/1945, do chính Hồ Chí Minh yêu cầu trước đó khi hai người gặp nhau ở một thị trấn miền Nam Trung Quốc. Và chính nhà tình báo thân thiện này đã được đọc bản thảo Tuyên ngôn tại Hà Nội trước khi công bố ngày 2/9/1945.
Như vậy, ở ba thời kỳ khác nhau, ba bản tuyên ngôn độc lập tuy lời lẽ có khác nhau nhưng đều có cùng một nội dung là dân tộc ta tự khẳng định quyền tự do dân chủ và đoàn kết thống nhất ý chí đánh đuổi ngoại xâm giải phóng đất nước để giành lại nền độc lập bền vững. Bản tuyên ngôn độc lập thứ ba là tuyên ngôn của một chính phủ dân chủ cộng hòa thời kỳ mới, thời kỳ hội nhập vào cộng đồng thế giới, thời kỳ cáo chung của chế độ phong kiến, chủ nghĩa thực dân và đế quốc tiến tới xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa theo đường lối Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Điểm khác nhau
a. Hoàn cảnh sáng tác, đối tượng:
Ba bản tuyên ngôn ra đời trong ba hoàn cảnh khác nhau, hướng tới những đối tượng cụ thể khac nhau.
– Nam quốc sơn hà: Bắt đầu thời nhà Lý, dưới triều vua Lý Nhân Tông (1072-1127), tháng chạp năm BínhThìn (1076), sau khi hội quân với Chiêm Thành và Chân Lạp nhà Tống (Trung Quốc) đưa quân sang xâm chiếm nước ta vào đến sông Như Nguyệt (nay là sông Cầu thuộc làng Như Nguyệt, Bắc Ninh). Vua Lý Nhân Tông sai tướng Lý Thường Kiệt đem quân chặn đánh nhưng quân giặc dùng súng bắn đá gây tổn thất cho ta rất nhiều. Lý Thường Kiết hết sức điều động dân quân chống giữ không cho giặc sang sông, nhưng lại lo quân mình ngã lòng, bèn ngâm lớn bài thơ có bốn câu bằng chữ Hán nói là của thần linh mách bảo để động viên, cổ cũ quan quân dốc lòng đánh giặc.