LH Quảng cáo: lazijsc@gmail.com

Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Giới thiệu nét cơ bản về tác phẩm "Phú sông Bạch Đằng" của Trương Hán Siêu

2 trả lời
Hỏi chi tiết
1.709
0
0
KookMin
01/03/2020 18:23:54

Nhắc đến những nhà thơ nổi tiếng của văn học trung đại không thể nào bỏ qua Trương Hán Siêu. Một nhân vật có tài năng uyên bác, thông hiểu đạo lí và giàu lòng yêu nước. Ông cũng là người có đóng góp rất lớn cho sự phát triển phồn vinh của triều đại nhà Trần. Bạch đằng giang phú là một tác phẩm nổi tiếng được nhiều người yêu thích và tìm hiểu.

Trương Hán Siêu năm sinh chưa rõ nhưng mất vào năm 1354 có tên chữ là Lăng Phủ, quê làng Phúc Am, huyện An Khánh, Ninh Bình. Lúc trẻ ông là môn khách của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn tham gia hai cuộc kháng chiến vĩ đại chống quân Nguyên mông lần thứ hai và thứ ba. Ông đã trải qua làm quan dưới bốn triều vua nhà Trần. Được đánh giá là một ngời vừa có học vấn uyên bác, thông hiểu sâu sắc nho giáo, đạo phật lại giàu lòng yêu nước. Ông được các vua Trần vô cùng tôn kinh và coi như bậc thầy.

Dưới thời vua Trần Anh Tông ông được phong làm hàn lâm học sĩ. Đời Minh Tông ông giữ chức hành khiển, Dụ Tông năm 1339 ông làm Hữu ti Lang. Đời Dụ  Tông đổi sang Tả Tư Lang kiêm chức và đến năm 1351 ông được phong làm Tham tri Chính sự.

Sau khi mất ông được phong làm Thái phó và cho phối thờ ở Văn Miếu Thăng Long ngang với các bậc hiền triết thời xưa. Trong sự nghiệp sáng tác văn chương của mình ông để lại cho đời rất nhiều những tác phẩm hay tuy nhiên được chú ý nhất là Bạch đằng giang phú. Nó được coi như một kiệt tác trong văn chương cổ Việt Nam.

Sông Bạch Đằng là một nhánh sông đổ ra biển Đông nằm giữa thị xã Quảng Ninh và Hải Phòng nơi đây ghi dấu rất nhiều những chiến công của lịch sử dân tộc. Trong đó lừng lẫy nhất có thể nói đến chiến thắng năm 938 của Ngô Quyền phá  tan quân Nam Hán và chiến thắng quân Nguyên Mông của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.

Phú sông Bạch Đằng được viết bằng chữ hán và được dịch giả Bùi Văn Nguyên dịch vô cùng thành công. Phú là một thể loại văn cổ dùng để tả cảnh vật, phong tục cũng như tính tình. Kết cấu mỗi bài phú được chia thành bốn phần. Ở bài Phú sông Bạch Đằng cũng không hề ngoại lệ.  Từ phần đầu bài thơ cho đến câu “tiếc thay dấu vết còn lưu” là phần giới thiệu về nhân vật khách khi du ngoạn trên sông Bạch Đằng. “khách” trong câu thơ là nơi nhà cao ghế tựa, trua mùa hạ nắng nóng, áo trong ngắn , làn nước biếc. “Khách” ở đây có thể hiểu là Mạc Đĩnh Chi đã biểu lộ tấm lòng thanh cao, chí khí hoài bão của kẻ sĩ ở đời. Những câu thơ đầu cũng cho thấy một tâm hồn hiểu biết rộng, chí khí lớn ham thích phiêu lưu thích thú tiêu dao tự do của nhà thơ Trương Hán Siêu. Đêm thì “chơi trăng” ngày thì “sớm gõ thuyền chờ Vũ Nguyệt”. Những danh lam thắng cảnh được nhắc đến trong bài phú như: Nguyên Tương, Cửu Giang, Ngũ Hổ, Bách Việt.... đều là những danh thắng trên đất nước Trung Hoa tuy nhiên nó mang ý nghĩa tượng trưng thể hiện cá tính tâm hồn yêu thiên nhiên tha thiết lấy việc du ngoạn làm lạc thú ở đời. Đoạn thơ:

“Đầm vân mộng chứa vài trăm dạ cũng nhiều

Bát ngát song kình muôn dặm

Thướt tha đuôi trĩ một màu”

Đây là những vần thơ chan chứa để nói về cảnh đẹp hùng vĩ , bát ngát của danh lam thắng cảnh đất nước. Phần hai của bài thơ từ đoạn tiếp theo cho đến “hội nào bằng hội Mạnh Tân: như vương sư họ Lã”. Đây là cuộc gặp gỡ bên sông và câu chuyện của các bô lão hiếu khách. Các bô lão là người kể chuyện và cũng  là người bình luận về những về các chiến tích xưa. Điều đặc biệt ở đây chính là các bô lão cũng là những người đã tham gia vào trận chiến oanh liệt đó cùng với nhân vật khách đối thoại bày tỏ những tâm tư tình cảm của mình, khi các bô lão xuất hiện cũng là là lúc nhân vật khách đang ngậm ngùi thương tiếc.  Giọng kể hào hùng, rành rọt và sôi nổi như sống lại những giây phút oanh liệt của cả dân tộc vậy.

Phần ba từ đoạn tiếp theo cho đến nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh. Lời bình của các bô lão đã nhấn mạnh những trận chiến lừng lẫy của các nhân tài đồng thời như một lời tổng kết thành một chân lí vậy.

Phần thứ tư cũng là phần còn lại là lời bình của nhân vật khách, cũng là lời nối tiếp theo của các bô lão. Nhằm ý nghĩa ngợi ca sự anh minh của các vị thánh quân, ngợi ca giá trị của các chiến công mang đến thái bình muôn thưở cho nhân dân. Hai câu thơ cuối của bài cũng là lời kết thúc một chân lí mối quan hệ giữa đất hiểm và người tài.

 

Có thể nói Trương Hán Siêu là một trong những anh hùng dân tộc, một nhân sĩ có đóng góp tích cực đối với nền văn học nước nhà. Tên tuổi của ông cùng Phú sông Bạch Đằng sẽ lưu danh muôn thưở trở thành một trong những điểm sáng trong bầu trời văn học Việt Nam. 

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
0
0
KookMin
01/03/2020 18:24:38
Bạch Đằng giang là một con sông sử thi hào hùng, nơi đây từng ghi lại những chiến công hiển hách trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Bài Phú được viết từ cảm hứng hào hùng và bi tráng khi tác giả là một trọng thần của Vương triều nhà Trần đang có biểu hiện suy thoái, có nguy cơ sụp đổ (Thời Trần Hiến Tông, Trần Dụ Tông). Vì thế, cảm hứng Bạch Đằng giang vừa là cảm hứng lịch sử, vừa là cảm hứng thời thế, lại vừa có những suy ngầm triết lí được rút ra thành bài học.
Bạch Đằng giang phú được viết theo thể loại Phú (cổ thể). Hệ thống câu từ của bài theo lối kể chuyện: một vị “khách” giong thuyền chơi sông, qua nhiều cảnh đẹp. Đến sông Bạch Đằng, vị “khách” được nghe chuyện các bô lão địa phương kể về chiến công ngày trước. Hết lời kể đến lời ca, “khách” nghe và nối lời ca tiếp. Như vậy, bài Phú có hai nhân vật: khách và các bô lão. Khách có thể là một ai đó hoặc là chính tác giả. Bài Phú có lời kể về “Khách” về “Bô lão”, có lời các Bô lão kể và ca. Cuối cùng là lời ca của “Khách” được kể lại.
 
Bài Phú mở ra trong cảnh dạo thuyền chơi sông của “Khách”. Cảnh nên thơ, người rộng mở tâm hồn:
 
“Giương buồm giong gió chơi vơi,
Lướt bể chơi trăng mải miết”.
 
Khách không chỉ là một người ham du ngoạn mà còn là một tráng sĩ phóng khoáng, mạnh mẽ, một con dân Đại Việt đang ngược dòng thời gian tìm hiểu lịch sử dân tộc. Tâm trạng của “Khách” vì thế mà chứa chất bao Suy tư: “đứng lặng giờ lâu”, “thương nỗi anh hùng đâu vắng tá?”“tiếc thay dấu viết huống còn lưu”...
 
Sau này, Nguyễn Trãi đến cửa biển Bạch Đằng cũng có một phút cảm ra hoài tương tự:
 
“Việc cử ngoảnh đầu ôi đã vắng!
Tới dòng ngắm cảnh dạ bâng khuâng”
 
Những con người nặng nợ với non sông tất sẽ có những phút giây cảm hoài như thế.
 
Nhân vật “Khách” tuy có tính chất công thức ở thể Phú nhưng đã được Trương Hán Siêu thổi hồn thành một con người sinh động. “Khách” chính là “Cái tôi” của tác giả - một con người có tính cách tráng sĩ, một hồn thơ nhạy cảm, một kẻ sĩ nặng lòng ưu ái với đất nước và lịch sử dân tộc.
 
Nếu ở đoạn một, nhân vật “Khách” là sự phân thân của tác giả thì ở đoạn hai nhân vật “Bô lão” là hình ảnh tập thể xuất hiện như một sự ủng hộ. Các “Bô lão” là chứng nhân của lịch sử, là một hình ảnh có tính lịch đại. Sự xuất hiện của các bô lão nhằm tạo không khí đối đáp tự nhiên từ đó giúp “Khách” sống lại với những trận thuỷ chiến ở nơi đây.
 
Với lời lẽ trang trọng, những kì tích được gợi lên qua cách liệt kê sự kiện trùng trùng điệp điệp:
 
“Đây là chiến địa buổi Trùng Hưng Nhị thánh bắt Ô Mã.
Còng là bãi đất xưa Ngô Chúa Phú Hoàng Thao”.
 
Các hình ảnh đối nhau liên tiếp, chát chúa, gợi lên không khí bừng bừng chiến trận:
 
“Thuyền bè muôn đội
Tinh kì phấp phới,
Hùng hổ sáu quân,
Giáo gươm sáng chói”...
 
- Miêu tả thế trận giằng co quyết liệt: “Chiến luỹ Bắc Nam chống đối”...
 
Tác giả chọn lọc những hình ảnh, điển tích tạo nên khả năng diễn tả sự thất bại thảm hại của quân giặc (Xích Bích, Hợp Phì, Bồ Kiên...). Đây cũng là thủ pháp ẩn dụ, đặt những trận thuỷ chiến Bạch Đằng ngang tầm những trận oanh liệt nhất trong lịch sử Trung Quốc.
 
Chiến thắng Bạch Đằng giang được diễn tả như một bài thơ tự sự đậm chất anh hùng ca. Tiếng trống trận, tiếng gươm khua như hoà vào cảm hứng tự hào, kiêu hãnh để rồi lắng lại trong suy ngẫm: “Trời đất cho nơi hiểm trở” “Nhân tài giữ cuộc điện an”
 
“Đến sông đây chừ hổ mặt
Nhớ người xưa, chừ lệ chan”
 
Lời ca của các bô lão là lời khẳng định sự tồn tại vĩnh hằng của dòng sông lịch sử và những chiến cồng hiển hách ở đây đồng thời cũng khẳng định sự tồn tại vĩnh hằng của chân lí: bất nghĩa tất yếu sẽ tiêu vong, chỉ có anh hùng là lưu danh thiên cổ.
 
Lời ca của “Khách” (theo lối liên ngâm) cũng tiếp nối niềm tự hào ấy đồng thời thể hiện quan niệm vững chắc vào vai trò của con người trong việc “giữ cuộc điện an”. Đây là quan niệm tiến bộ và hết sức nhân văn.
 
Giá trị của bài Phú là ở chỗ không chỉ làm sống dậy hào khí chiến thắng của những trận Bạch Đằng mà còn làm sáng lên chân lí muôn đời bất diệt của một dân tộc. Nội dung của bài Phú được biểu hiện thông qua một cấu tứ đơn giản mà hấp dẫn, một bố cục chặt chẽ, một năng lực chọn lọc chi tiết đích đáng để đảm bảo độ súc tích, một hơi văn liền mạch cuồn cuộn cảm hứng đặc biệt là sự kết hợp tự sự và trữ tình một cách nhuần nhuyễn. “Bạch Đằng giang phú” có yếu tố “bi” nhưng với tất cả những gì mà thiên tài Trương Hán Siêu thể hiện, tác phẩm xứng đáng là một bản tráng ca bất hủ của muôn đời.
 
Nền văn học dán tộc đã rất tự nhiên mà hình thành dòng thơ vần Bach Đằng. Với “Bài phú sông Bạch Đằng”, Trương Hán Siêu đã đóng một “trụ đồng” sáng chói trên dòng thi ca bất tận ấy để con cháu muôn đời còn ngưởng vọng.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư