Đến tháng 1 năm 2018, cả nước có 248 di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia[1], bao gồm 93 lễ hội truyền thống, 60 di sản nghệ thuật trình diễn dân gian, 59 di sản tập quán xã hội và tín ngưỡng, 23 di sản nghề thủ công truyền thống, 5 di sản tri thức dân gian, 5 di sản tiếng nói, chữ viết và 4 di sản ngữ văn dân gian (trong đó có một di sản hỗn hợp là nói lý, hát lý của người Cơ Tu đồng thời là di sản nghệ thuật trình diễn dân gian và di sản tiếng nói, chữ viết). Tuy nhiên, đây chỉ là số liệu mang tính tương đối, do có những di sản được tính chung cho nhiều tỉnh, thành phố (ví dụ: ca trù, đờn ca tài tử Nam Bộ[2]), ngược lại có những di sản được tính riêng cho từng tỉnh, thành phố (ví dụ: Lễ hội cầu Ngư[2][3][4][5], nghệ thuật bài chòi[6][7]). Một trường hợp đặc biệt là nghi lễ cấp sắc của người Dao, năm 2012 được công nhận là di sản chung của các tỉnh Bắc Kạn, Hà Giang, Lào Cai và Yên Bái[2], lần lượt các năm sau đó lại được công nhận là di sản riêng của tỉnh Tuyên Quang (năm 2013 [8]), tỉnh Thái Nguyên (năm 2014[6]) và tỉnh Sơn La (năm 2016[7]). Có 1 di sản là Lễ hội Trường Yên sau được Bộ văn hóa thể thao và du lịch điều chỉnh thành tên gọi là Lễ hội Hoa Lư.[9]