Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, một trong những nhân tố quyết định vận mệnh, tương lai của dân tộc; là lực lượng chủ yếu trên nhiều lĩnh vực, đảm nhiệm những công việc đòi hỏi gian khổ, hy sinh, sức khỏe và sự sáng tạo. Trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao vị trí, vai trò của thanh niên, xác định thanh niên là lực lượng xung kích cách mạng, đoàn thanh niên là đội dự bị tin cậy của Đảng, công tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc. Hồ Chí Minh gắn “số phận và sự nghiệp” của thanh niên với “số phận và sự nghiệp” của đất nước. Người nói: “Nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên”[1].
Nhận rõ vai trò, vị trí của thanh niên đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra đường lối, chủ trương đúng đắn, kịp thời để tập hợp, đoàn kết, khơi dậy và phát huy cao độ lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, khát vọng cống hiến của thanh niên. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện lời kêu gọi “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, các thế hệ, tầng lớp thanh niên Việt Nam đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh, sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu, làm bất cứ việc gì Tổ quốc cần để hiến dâng tuổi thanh xuân của mình cho Tổ quốc. Sức mạnh “dời non lấp biển” của thanh niên đã tạo nên một dòng thác, một làn sóng, như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn chìm, đánh bại kẻ thù xâm lược, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước.
1. Đề ra chủ trương, đường lối đúng đắn về công tác thanh niên, vận động, tập hợp thanh niên
Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời đề ra chủ trương, đường lối đúng đắn để tập hợp, vận động thanh niên cho mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam. Trong nhiều nghị quyết, chỉ thị của Đảng, nhất là trong công tác tư tưởng, vấn đề tập hợp, đoàn kết, vận động thanh niên luôn là một trong những nội dung quan trọng. Đặc biệt, ở những thời điểm quyết định, mang tính bước ngoặt của cuộc kháng chiến, những lúc chiến tranh chuyển giai đoạn, khi tình hình quốc tế diễn biến phức tạp, hoặc khi kẻ địch sử dụng những thủ đoạn mới, Đảng đã kịp thời ban hành các chỉ thị chuyên đề về công tác thanh niên. Đó là những quan điểm, chủ trương của Đảng về công tác thanh niên nói chung, thanh niên xung phong nói riêng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, mà cho đến nay, nhiều nội dung, tư tưởng vẫn còn nguyên giá trị.
Trong quan điểm, chủ trương của Đảng về công tác thanh niên thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, có ý nghĩa và vai trò quan trọng hơn cả là Chỉ thị số 105-CT/TW, ngày 29-7-1965 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc tăng cường lãnh đạo công tác vận động thanh niên trong tình hình mới. Chỉ thị số 105 của Đảng đánh giá rất cao vai trò, vị trí của thanh niên nói chung, Đoàn Thanh niên nói riêng đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, cho rằng vấn đề đặt ra là “phải dựa vào Đoàn Thanh niên Lao động, với hơn một triệu đoàn viên, mà tổ chức, động viên cho được 4 triệu thanh niên nam nữ trên miền Bắc tiến lên hàng đầu trên mặt trận sản xuất, chiến đấu, học tập và xây dựng cuộc sống mới, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, tích cực bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa và góp phần vào sự nghiệp giải phóng miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc”[2]. Để thực hiện và phát huy được vai trò của thanh niên, Chỉ thị nhấn mạnh, các cấp ủy, chính quyền cần phải quan tâm, giúp đỡ, lãnh đạo Đoàn Thanh niên, đồng thời yêu cầu Đoàn Thanh niên phải tự xác định đầy đủ vai trò, vị trí của mình, cố gắng vươn lên ngang tầm nhiệm vụ.
Trong các văn kiện của Đảng về thanh niên, vấn đề được nhấn mạnh hàng đầu và cũng là nhiệm vụ trọng tâm lãnh đạo của Đảng đối thanh niên là tăng cường công tác chính trị - tư tưởng để thống nhất nhận thức, xác định phương phướng đúng đắn, làm cơ sở để thống nhất hành động, cụ thể là: 1. Tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ thanh niên về lý tưởng, đạo đức cách mạng; ra sức học tập, rèn luyện văn hóa, kỹ thuật, chuyên môn; giác ngộ thanh niên về sứ mệnh và trách nhiệm đối với đất nước và dân tộc; 2. Khơi dậy, tập hợp, đoàn kết, phát huy cao độ lòng yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần xung kích của thanh niên trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; 3. Lãnh đạo, xây dựng Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam thực sự là cánh tay phải, là đội hậu bị của Đảng. Đây là những vấn đề căn cốt, là nội dung chủ yếu trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với thanh niên thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Cùng với Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, dù bận trăm công nghìn việc, vẫn luôn dành cho thanh niên nói chung, thanh niên xung phong nói riêng sự quan tâm, động viên và những tình cảm đặc biệt. Người đánh giá rất cao vị trí, vai trò của thanh niên, tin tưởng và kỳ vọng đây sẽ là lớp người kế thừa một cách xuất sắc sự nghiệp của các thế hệ tiền bối. Những chuyến thăm, các bài nói, bài viết, bức thư của Người gửi thanh niên đã thể hiện sâu sắc tình cảm, sự quan tâm của Người. Đó là nguồn động viên, cổ vũ, khích lệ thanh niên, vun đắp niềm tin, ý thức vươn lên trong mọi nghịch cảnh. Sự quan tâm, động viên của Chủ tịch Hồ Chí Minh như là tình cảm, lời căn dặn của người cha với những người con của mình có sức cảm hóa, thức tỉnh và khơi dậy đến mức cao nhất nguồn nội lực, sức mạnh tinh thần, lòng yêu nước của thanh niên cho sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đi tới thắng lợi cuối cùng.
2. Tuyên truyền, giáo dục lý tưởng, đạo đức, văn hóa, khoa học kỹ thuật; giác ngộ thanh niên về trách nhiệm, sứ mệnh lịch sử đối với đất nước và dân tộc
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc diễn ra trong bối cảnh tương quan so sánh lực lượng chênh lệnh rất lớn giữa hai phía. Trong khi Mỹ là một quốc gia tư bản, có sức mạnh quân sự và kinh tế lớn mạnh nhất thế giới, thì Việt Nam là quốc gia nông nghiệp nghèo nàn, kinh tế lạc hậu. Điều duy nhất mà chúng ta có lợi khi bước vào cuộc chiến đó là tính chính nghĩa của dân tộc Việt Nam. Cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam là chống xâm lược, bảo vệ nền độc lập dân tộc và thống nhất đất nước, nên nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn của nhân dân tiến bộ và các lực lượng hòa bình, dân chủ trên thế giới. Đó là một lợi thế tinh thần vô cùng quan trọng, mà kẻ đi xâm lược không bao giờ có được.
Tuy nhiên, sau khi miền Bắc được giải phóng, những di tồn của chế độ cũ, cùng hậu quả của hàng trăm năm đô hộ, xâm lược của thực dân Pháp và tâm lý hưởng thụ, ngại khó khăn, gian khổ đã xuất hiện trong một bộ phận thanh niên. Đặc biệt, trước những tác động của tình hình trong nước và thế giới, với âm mưu và hành động ngày càng quyết liệt của đế quốc Mỹ và tay sai, cuộc kháng chiến càng đi vào giai đoạn khó khăn, tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhất là thanh niên đã có những diễn biến phức tạp. Một bộ phận thanh niên có tư tưởng bi quan, hoài nghi, thiếu phấn khởi và tin tưởng ở tiền đề thắng lợi của cách mạng, từ đó dẫn đến những lệch lạc, khi tả, khi hữu trong việc chấp hành đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Tư tưởng sợ Mỹ, không dám đánh Mỹ đã xuất hiện không chỉ trong một bộ phận quần chúng nhân dân, mà có cả thanh niên. Tình hình đó đặt ra yêu cầu mới đối với Đảng trong cuộc vận động thanh niên cho mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Trong bối cảnh đó, việc giúp thanh niên xác định được lý tưởng, sống có lý tưởng, nhận thức được ý nghĩa của lý tưởng đối với cuộc sống, để vươn lên ngang tầm yêu cầu, nhiệm vụ lịch sử, từ đó cụ thể hóa thành hành động cách mạng là một nhiệm vụ quan trọng. Đối với vận mệnh của dân tộc Việt Nam lúc này, lý tưởng của thanh niên chính là khát vọng được cống hiến tuổi xuân, sức trẻ, sẵn sàng xả thân, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, xây dựng miền Bắc, thống nhất nước nhà, là đặt lợi ích của đất nước, của dân tộc lên trên hết, trước hết. Về vấn đề này, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Nhiệm vụ của thanh niên không phải là hỏi nước nhà đã cho mình những gì. Mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà? Mình phải làm thế nào cho ích lợi nước nhà nhiều hơn? Mình đã vì lợi ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu chừng nào”[3].
Để thanh niên không quản ngại khó khăn, gian khổ, sẵn sàng xả thân, hy sinh vì nghiệp chống Mỹ, cứu nước, việc nhận thức vài giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể, giữa gia đình và Tổ quốc, giữa quốc gia và quốc tế, giữa sướng và khổ, giữa sống và chết có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đối với dân tộc Việt Nam “chống Mỹ, cứu nước là nghĩa vụ thiêng liêng của mọi người Việt Nam yêu nước”; khẩu hiệu lúc này là “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”; “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Xác định đánh thắng Mỹ là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc, công tác tuyên truyền tập trung vào việc tăng cường giáo dục thanh niên nhận rõ tình hình và nhiệm vụ mới, bản chất và âm mưu thâm độc của Mỹ và tay sai; về nhiệm vụ của hậu phương đối với tiền tuyến, của miền Bắc đối với miền Nam; tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến; khắc phục mọi khó khăn, gian khổ, sẵn sàng chiến đấu lâu dài; chống tư tưởng sợ Mỹ, đánh giá địch quá cao hoặc chủ quan khinh địch, tư tưởng hoang mang, dao động, cầu an; làm cho thanh niên nhận rõ trách nhiệm và vinh dự của mình lúc này là quyết tâm chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất nước nhà.
Cùng với việc tuyên truyền, giáo dục thanh niên về lý tưởng cách mạng, Trung ương Đảng và Hồ Chí Minh còn hết sức quan tâm đến việc giáo dục, rèn luyện, trang bị cho thanh niên về đạo đức, năng lực, tri thức văn hóa, khoa học kỹ thuật để trở thành người làm chủ xã hội, làm chủ cuộc sống, kế tục một cách trung thành và xuất sắc sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng. Đảng cho rằng, thế hệ thanh niên mới phải là lớp người hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ cách mạng chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Do đó, họ phải được giáo dục và rèn luyện về mọi mặt, được phát triển toàn diện: chính trị tư tưởng, văn hóa, kỹ thuật, văn học, nghệ thuật, sức khỏe. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Thanh niên ta phải cố gắng học... Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì nhất định phải có học thức. Cần phải học văn hóa, chính trị, kỹ thuật. Cần phải học lý luận Mác - Lê-nin kết hợp với đấu tranh và công tác hằng ngày… Học đi đôi với hành”[4].
Quan điểm của Đảng và Hồ Chí Minh về giáo dục, rèn luyện thanh niên không chỉ để xây dựng, bồi đắp lực lượng cách mạng cho tương lai, mà sâu sắc và nhân văn hơn là để giúp thanh niên phát triển bản thân, phát huy mặt tốt trong mỗi con người, tránh được những thói hư tật xấu để sống một cuộc đời xứng đáng với những giá trị làm người. Giá trị đó không phải tự nhiên có được, mà phải trải qua một quá trình học tập, rèn luyện gian khổ.
3. Khơi dậy, tập hợp, đoàn kết và phát huy cao độ lòng yêu nước, nhiệt tình cách mạng, tinh thần xung kích của thanh niên cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước
Khi đã xác định được tư tưởng, vấn đề còn lại là sử dụng các hình thức, biện pháp, khẩu hiệu để khơi dậy và phát huy đến mức cao nhất sức mạnh của thanh niên cho cuộc kháng chiến. Năm 1965, Mỹ mở rộng chiến tranh đánh phá miền Bắc, tạo ra cục diện cả nước có chiến tranh. Với trách nhiệm trước lịch sử và dân tộc, bằng nghệ thuật lãnh đạo tài tình, Đảng quyết định phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ trên phạm vi cả nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: “Lúc này chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng nhất của mọi người Việt Nam yêu nước... Tất cả chúng ta hãy đoàn kết nhất trí triệu người như một, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”[5]. Người chỉ rõ: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”[6]. Lời kêu gọi “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lay động tới trái tim, thúc giục, hiệu triệu, đoàn kết toàn dân, toàn quân Việt Nam, trong đó có thanh niên biến lòng yêu nước, căm thù giặc thành những việc làm, hành động cụ thể.
Hiểu rõ đặc điểm lứa tuổi, tâm lý, ưu khuyết điểm của tuổi trẻ, trước thử thách sống còn của dân tộc và đòi hỏi của cuộc kháng chiến, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra những cách thức, biện pháp khác nhau để tập hợp, đoàn kết thanh niên, trong đó hiệu quả hơn cả là khơi gợi chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc, khát vọng cống hiến, lập công trong thanh niên; kết hợp nâng cao tình cảm và lý trí, nhiệt tình và hiểu biết, nhận thức và hành động; chú ý quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần và quyền lợi chính trị của thanh niên; chỉ đạo các cấp, chính quyền địa phương, các đoàn thể quần chúng bảo đảm tốt hậu phương đối với những người đi bộ đội, nhất là những gia đình có người đi chiến đấu ở xa, gia đình gặp khó khăn; hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách, chế độ đối với các gia đình bộ đội, liệt sĩ, thương bệnh binh, thanh niên xung phong.
Nói đến sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chí Minh đối với thanh niên, không thể không nói tới chủ trương thành lập lực lượng thanh niên xung phong chống Mỹ, cứu nước (tập trung). Chỉ thị số 105 CT-TW, ngày 29-7-1965 của Ban Bí thư Trung ương Đảng chỉ rõ: “Để phát huy truyền thống của các đội thanh niên xung phong trong thời kỳ kháng chiến và để kịp thời đáp ứng với nhiệt tình của thanh niên đang sôi nổi thực hiện “Ba sẵn sàng” (sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu dũng cảm và sẵn sàng nhập ngũ; sẵn sàng khắc phục mọi khó khăn đẩy mạnh sản xuất, công tác và học tập trong bất kỳ tình huống nào; sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu và làm bất cứ việc gì mà Tổ quốc cần đến), cần tổ chức các đội thanh niên xung phong chống Mỹ, cứu nước nhằm phục vụ cho chiến đấu và xây dựng. Mỗi đội thanh niên xung phong phải là một đơn vị sản xuất có năng suất lao động cao, một đơn vị sẵn sàng chiến đấu khi cần thiết và đồng thời là một trường học văn hóa, kỹ thuật, nơi đào tạo và rèn luyện thanh niên về mọi mặt”[7]. Thực hiện chủ trương trên, Trung ương Đảng đã quyết định giao cho Trung ương Đoàn Thanh niên Lao động tổ chức các đội thanh niên xung phong chống Mỹ, cứu nước; coi Đội thanh niên xung phong là một lực lượng lao động đặc biệt, quân sự hóa của thanh niên, có vũ trang, được tổ chức và xây dựng trên 3 mặt: sản xuất, chiến đấu và học tập.
Đội thanh niên xung phong chống Mỹ, cứu nước là tổ chức quy tụ, tập hợp những thanh niên yêu nước nhiệt thành, gương mẫu, tiên tiến, có ý chí, nghị lực và tích cực phấn đấu vì sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Các đội thanh niên xung phong có nhiệm vụ chủ yếu là: 1. Lao động sản xuất, chủ yếu phục vụ giao thông vận tải, như sửa chữa cầu đường, làm đường mới, rà phá bom mìn, trấn giữ trọng điểm địch đánh phá ác liệt; tích cực cùng với nhân dân lao động sản xuất, xây dựng, khôi phục, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nhất là ở những vùng, miền còn nhiều khó khăn của đất nước; 2. Nhiệm vụ chiến đấu, chủ yếu là luyện tập quân sự để sẵn sàng chiến đấu và bổ sung lực lượng quân đội trực tiếp chiến đấu khi cần thiết; 3. Học tập và rèn luyện, bao gồm học tập chính trị, văn hóa, chuyên môn kỹ thuật; rèn luyện tác phong, sức khỏe, nền nếp sinh hoạt để sẵn sàng bổ sung vào lực lượng vũ trang, cung cấp cán bộ, nhân viên cho các ngành, các cấp, xứng đáng là thanh niên anh hùng của một dân tộc anh hùng. Với những nhiệm vụ trên, đội thanh niên xung phong còn là môi trường để tổ chức, bồi dưỡng, giáo dục, rèn luyện thanh niên cho sự nghiệp cách mạng lâu dài; là trường học lớn mà ở đó vừa lao động, sản xuất, vừa trực tiếp chiến đấu, vừa học tập, rèn luyện để không ngừng tiến bộ, trưởng thành, đào tạo ra các thế hệ thanh niên có truyền thống “chiến đấu dũng cảm, lao động sáng tạo, lập công xuất sắc” phục vụ trên mọi lĩnh vực.
Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “đâu Đảng cần thì thanh niên có, việc gì khó thì thanh niên làm”, hàng chục vạn thanh niên đã tình nguyện gia nhập các đội thanh niên xung phong. Đi thanh niên xung phong vừa là trách nhiệm, nghĩa vụ, đồng thời cũng là tâm nguyện, vinh dự của các bạn trẻ. Thanh niên xung phong miền Bắc, nhất là trong phong trào “Ba sẵn sàng” đã sát cánh cùng với lực lượng vũ trang, công nhân ngành giao thông vận tải làm nhiệm vụ mở đường, sửa chữa cầu đường, bảo đảm giao thông luôn thông suốt, vận chuyển hàng quân sự, hoàn thành tốt nhiệm vụ với yêu cầu kỹ thuật cao và nguy hiểm. Với ý chí “tim có thể ngừng đập, nhưng mạch máu giao thông không thể tắc”, “sống anh dũng, chết kiên cường dũng cảm”, quyết tâm “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, trên 20 vạn thanh niên xung phong miền Bắc đã nêu cao tinh thần yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, mưu trí, dũng cảm, sáng tạo trong sản xuất và chiến đấu, góp phần xứng đáng vào thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Cùng với phong trào tình nguyện “Ba sẵn sàng” của thanh niên miền Bắc, ở miền Nam, dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, trong phong trào “Năm xung phong” (1. Xung phong tiêu diệt thật nhiều sinh lực địch; 2. Xung phong tòng quân và tham gia du kích chiến tranh; 3. Xung phong đi dân công và thanh niên xung phong phục vụ tiền tuyến; 4. Xung phong đấu tranh chính trị và chống bắt lính; 5. Xung phong sản xuất nông nghiệp trong nông hội), hàng vạn thanh niên đã gia nhập lực lượng thanh niên xung phong giải phóng miền Nam và các đơn vị thanh niên xung phong ở các quân khu, quân đoàn và địa phương, ngày đêm sát cánh cùng với quân giải phóng phục vụ chiến đấu và trực tiếp chiến đấu ở hầu hết các chiến trường, chống càn, xung kích vào những việc khó khăn, nguy hiểm, với khẩu hiệu “nơi đâu chiến trường cần, thanh niên xung phong có mặt, nơi nào có giặc, thanh niên xung phong xuất phát”.
Qua các phong trào này, hàng nghìn tập thể và cá nhân trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu, lao động, sản xuất, học tập và xây dựng cuộc sống mới đã trở thành người lao động tiên tiến, chiến sĩ thi đua, chiến sĩ quyết thắng, anh hùng lao động và anh hùng các lực lượng vũ trang… Rất nhiều cá nhân, tập thể, sự việc, hành động anh hùng mà tấm gương hy sinh anh dũng cho độc lập, tự cho, xây dựng chủ nghĩa xã hội đã tiêu biểu cho những phẩm chất cao đẹp của thế hệ thanh niên thời đại Hồ Chí Minh.
4. Lãnh đạo xây dựng tổ chức Đoàn Thanh niên thực sự là cánh tay, đội hậu bị của Đảng
Đoàn Thanh niên Lao động là trường học của thanh niên, nơi đào tạo thế hệ thanh niên trở thành lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng, của giai cấp, dân tộc; là đội quân xung kích cách mạng thực hiện mọi nhiệm vụ và đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với thanh niên và Đoàn thanh niên là nhân tố quyết định nhất đối với sự phát triển của phong trào thanh niên và các mặt hoạt động của của Đoàn thanh niên trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhận rõ tầm quan trọng đó, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Trung ương Đảng đã ra nhiều chỉ thị về công tác đoàn và phong trào thanh niên, xây dựng Đoàn thanh niên vững mạnh, thực sự trở thành đội hậu bị và cánh tay đắc lực của Đảng.
Để Đoàn phát huy được vai trò của mình, Đảng và Hồ Chí Minh yêu cầu các cấp ủy, các ngành phải nhận thức đầy đủ và đúng đắn vai trò và khả năng cách mạng của thanh niên, về nhiệm vụ thanh vận của Đảng và về vị trí chính trị của Đoàn thanh niên trong tình hình mới; nhận thức đúng mức đến việc xây dựng, củng cố tổ chức Đoàn thanh niên cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, trong đó việc giáo dục, nâng cao giác ngộ chính trị cho đoàn viên và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đoàn là hai khâu trọng yếu, quyết định nhất.
Đảng lãnh đạo mọi hoạt động của Đoàn thanh niên đều hướng vào thực hiện những nhiệm vụ cách mạng của Đảng; hướng toàn thể nam, nữ đoàn viên, thanh niên suy nghĩ và hành động với tư cách người lính xung kích, cống hiến hết sức mình cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà trên các mặt sản xuất, công tác, học tập, bảo vệ Tổ quốc, xây dựng cuộc sống mới. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khuyến khích Đoàn thanh niên phát huy tính chủ động, sáng tạo, nghiên cứu tìm ra những hình thức, phương pháp thích hợp để đoàn kết và tổ chức thanh niên một cách rộng rãi và vững chắc. Thực hiện chủ trương trên, Đảng quyết định giao nhiệm vụ cho Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam thành lập, chỉ đạo, quản lý, sử dụng lực lượng thanh niên xung phong chống Mỹ, cứu nước (tập trung). Quyết định trên thể hiện sự tin cậy của Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với Đoàn thanh niên, đề cao trách nhiệm của tổ chức đoàn thanh niên đối với Đảng, phát huy được tính chủ động, sáng tạo của tổ chức Đoàn thanh niên.
Để củng cố, xây dựng Đoàn thanh niên ngày càng vững mạnh, tạo nguồn cán bộ kế cận, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh còn hết sức quan tâm đến việc kết hợp một cách hài hòa giữa huy động, sử dụng thanh niên với giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng thanh niên; chỉ đạo cấp ủy cần hết sức quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của đoàn, có quy hoạch, chương trình đào tạo trước mắt và lâu dài và giao cho Đoàn thanh niên phụ trách việc đôn đốc, kiểm tra thực hiện. Trong bối cảnh đất nước đang trải qua cuộc chiến tranh đầy hy sinh và gian khổ, chủ trương trên thể hiện tầm nhìn xa rộng, sự tin tưởng sâu sắc vào thanh niên và tổ chức Đoàn thanh niên.
Thực hiện nhiệm vụ chính trị được Đảng tin cậy giao phó, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam phát huy vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo, với nhiều hình thức, biện pháp đã tập hợp, động viên tới mức cao nhất sức mạnh của các tầng lớp thanh niên cho cuộc kháng chiến. Từ hậu phương lớn miền Bắc đến tiền tuyến lớn miền Nam, từ trong các vùng giải phóng, các căn cứ địa kháng chiến đến các đô thị, sào huyệt của địch, đâu đâu cũng vang vọng bài ca làm theo lời Bác: “Không có việc gì khó/ Chỉ sợ lòng không bền/ Đào núi và lấp biển/ Quyết chí ắt làm nền”. Với phương châm “đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên”, “tiếng hát át tiếng bom”, hàng trăm nghìn đoàn viên, thanh niên đã ghi tên xung phong tình nguyện lên đường ra mặt trận, sẵn sàng cầm súng chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Hàng nghìn thanh niên đã xung phong đến những vùng, miền xa xôi, khó khăn nhất của Tổ quốc để xây dựng kinh tế, phát triển đất nước. Có thể nói, tuổi trẻ Việt Nam nói chung, thanh niên xung phong nói riêng đóng vai trò vô cùng quan trọng, cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
5. Để tập hợp, đoàn kết, phát huy sức mạnh của thanh niên trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước toàn thắng đã đưa dân tộc Việt Nam bước sang một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên đất nước độc lập, thống nhất, cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi đó là kết quả của nhiều nhân tố, trong đó có sự đóng góp to lớn, xứng đáng của các tầng lớp thanh niên Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong rất nhiều bài học được đúc kết từ 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, bài học về việc bồi dưỡng và phát huy sức mạnh của nhân tố con người, mà lực lượng nòng cốt, rường cột là thanh niên giữ vai trò quan trọng.
Ngày hôm nay, trong bối cảnh đất nước đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, việc nhận thức và phát huy được vai trò của thanh niên trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc có ý nghĩa rất quan trọng, quyết định sự thành bại của quốc gia, dân tộc cũng như tương lai của nước nhà. Thực tế đã minh chứng, thành quả của hơn 30 năm đổi mới đất nước vừa qua có sự đóng góp không nhỏ của các tầng lớp thanh niên Việt Nam.
Nhưng bên cạnh những ưu điểm, kết quả đạt được, có một thực tế là chúng ta vẫn chưa khơi dậy và phát huy hết sức mạnh tinh thần và lực lượng của một bộ phận thanh niên cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Có không ít thanh niên đứng ngoài quá trình phát triển của đất nước, thờ ơ, bàng quan với tương lai và vận mệnh của nước nhà. Một bộ phận thanh niên suy thoái về đạo đức, lối sống, nhận thức lệch chuẩn về các giá trị truyền thống, đạo lý, lẽ sống, mắc phải các tệ nạn xã hội. Nhiều trí tuệ, tài năng, sinh viên, trí thức thanh niên không được sử dụng, đãi ngộ, phát huy, thậm chí bị bỏ qua, làm mất đi một nguồn chất xám quan trọng phục vụ cho quá trình phát triển của đất nước. Thực trạng trên có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, song chủ yếu là do nguyên nhân chủ quan.
Cần phải khẳng định rằng, trong bối cảnh hiện nay, khi đất nước trong thời bình, xây dựng và phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, khi tình hình thanh niên, tư tưởng, tâm lý của thanh niên đang có những thay đổi lớn, vấn đề đặt ra là chúng ta cần có sự đổi mới nội dung, phương pháp, cách thức vận động, tuyên truyền thanh niên cho phù hợp với sự thay đổi của tình hình. Khác với thời kỳ đất nước có chiến tranh, trong giai đoạn hiện nay, để vận động, tập hợp, đoàn kết thanh niên, bên cạnh việc phát huy lòng yêu nước, tinh thần xung phong, xung kích, dấn thân, đổi mới, sáng tạo của thanh niên, cần chú ý đến động lực vật chất - kinh tế, kết hợp hài hòa, hợp lý giữa động lực lý tưởng - tinh thần - tình cảm với động lực vật chất - kinh tế.
Chúng ta cũng cần đặc biệt chú ý đến việc xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, dân chủ, công bằng, mà ở đó đạo đức được đề cao, con người sống trong tình thương yêu lẫn nhau. Đồng thời, kiến tạo môi trường năng động, sáng tạo, đổi mới, gắn trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi cá nhân với trách nhiệm, nghĩa vụ với tập thể, xã hội; ở đó thành quả lao động, tài năng được trọng dụng và đãi ngộ xứng đáng, một môi trường mà tất cả mọi người, trong đó có thanh niên đều cần phải cố gắng, nỗ lực không ngừng vươn lên, dấn thân, đóng góp cho đất nước và xã hội. Xây dựng và kiến tạo được môi trường xã hội lành mạnh, tốt đẹp, chúng ta nhất định sẽ tập hợp, phát huy được tinh thần và lực lượng của thanh niên.
Nhưng thanh niên chỉ là một bộ phận của xã hội, bên cạnh những mặt tích cực, ưu điểm, thì rất dễ bị ảnh hưởng tiêu cực từ môi trường, thói hư tật xấu trong xã hội. Để kiến tạo được môi trường xã hội lành mạnh, yêu cầu rất quan trọng là phải xây dựng được Đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh, là đạo đức, là văn minh. Đảng phải xứng đáng lại đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc thì mới có thể lãnh đạo, tập hợp, đoàn kết được thanh niên.
Sự phát triển của thanh niên, phong trào thanh niên không thể bỏ qua vai trò của tổ chức đoàn và hội. Bối cảnh, tình hình mới đặt tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam trước nhiều thử thách lớn trong việc tập hợp, đoàn kết thanh niên, trong đó khó nhất là đổi mới nội dung, cách thức tuyên truyền, vận động, tổ chức các phong trào, hoạt động sao cho thực sự hiệu quả, thiết thực, đáp ứng được mong mỏi của thanh niên và yêu cầu, đòi hỏi của nhiệm vụ chính trị. Muốn làm được điều đó, then chốt và quyết định nhất là phẩm chất, năng lực, đạo đức, trí tuệ, tinh thần đổi mới, sáng tạo của đội ngũ cán bộ Đoàn, Hội các cấp, đặc biệt là các thủ lĩnh đoàn, hội. Họ phải thực sự là đại diện ưu tú, tiêu biểu nhất cho trí tuệ, phẩm chất, bản lĩnh của thế hệ thanh niên Việt Nam thời đại mới.