LH Quảng cáo: lazijsc@gmail.com

Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Những yếu tố ảnh hưởng tới sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu

Những yếu tố ảnh hưởng tới sự nghiệp sáng tác của Nguyễn đình chiểu
 

3 trả lời
Hỏi chi tiết
712
0
1
Phonggg
28/06/2020 22:58:34
+5đ tặng

Nguyễn Đình Chiểu, tự Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai, sinh ngày 1-7-1822 tại làng Tân Thới, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định, nay thuộc phòng Cầu Kho, quận 1, TP. Hồ Chí Minh. Thân sinh nhà thơ là Nguyễn Đình Huy, người xã Bồ Điền, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên là Thơ lại Văn hàn ty của Tổng trấn Lê Văn Duyệt. Mẹ là Trương Thị Thiệt, người Gia Định.
Tuổi niên thiếu, Nguyễn Đình Chiểu từng chứng kiến cảnh loạn lạc của xã hội lúc bấy giờ. Những cuộc nổi dậy của đồng bào các dân tộc bị triều đình Huế đàn áp, đặc biệt là cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi tại Gia Định. Cuộc nổi dậy này đã gây ra những bão táp kinh hoàng trực tiếp đến gia đình Nguyễn Đình Chiểu. Nguyễn Đình Huy bỏ trốn ra Huế, bị cách chức, sau đó trở vào Nam đón Nguyễn Đình Chiểu, đem gửi cho một người bạn để ăn học. Cuộc sống 8 năm ở Huế đã giúp ông nhận rõ hơn sự thối nát và phức tạp của triều đình, đồng thời có điều kiện để tiếp thu truyền thống văn hóa dân tộc ở đất kinh đô.
Năm 1843, ông thi đỗ tú tài ở Trường thi Gia Định. Năm 25 tuổi, ông trở ra Huế học tập, chờ khoa thi năm Kỷ Dậu (1849), nhưng chưa kịp thi thì có tin mẹ mất. Trên đường trở về quê chịu tang mẹ, vì quá lo buồn, khóc thương, ông lâm bệnh và mù cả hai mắt.
Về đến Gia Định, sau khi mãn tang mẹ, ông tổ chức dạy học, bốc thuốc chữa bệnh và sáng tác thơ văn. Nhờ sống gắn bó với nhân dân, ông có điều kiện hiểu đồng bào của mình sâu sắc hơn. Chính trong thời gian này, Nguyễn Đình Chiểu sáng tác truyện thơ đầu tiên Lục Vân Tiên. Tác phẩm đề cập đến vấn đề đạo nghĩa ở đời, mang dấu ấn tự truyện, đã được nhanh chóng phổ biến rộng rãi. Một người học trò của ông là Lê Tăng Quýnh, vừa trọng nể tài năng và nhân cách, lại vừa thương cảm hoàn cảnh của thầy, đã đem gả người em gái là Lê Thị Điền cho ông. Ngày 17-2-1858, giặc Pháp chiếm thành Gia Định. Ông cùng gia đình chạy về quê vợ ở làng Thanh Ba, huyện Cần Giuộc. Cũng tại nơi đây, ông đã sáng tác áng văn bất hủ Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ngợi ca chiến công anh hùng của những người "dân ấp dân lân" trong trận tấn công đồn Tây Dương, mà người bạn đồng khoa với ông là Đỗ Trình Thoại đã hy sinh cùng với 7 nghĩa quân khác. Tác phẩm Dương Từ - Hà Mậu dài 3.448 câu thơ mang nội dung phê phán âm mưu lợi dụng tôn giáo của kẻ địch, lên án những người thờ ơ, vô trách nhiệm trước cảnh nước mất nhà tan cũng được sáng tác tại đây
Khi 3 tỉnh miền Đông rơi vào tay quân Pháp, không chịu sống trong vùng chiếm đóng của giặc, Nguyễn Đình Chiểu cùng gia đình xuôi thuyền về làng An Đức, tổng Bảo An, tỉnh Vĩnh Long, nay là huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Tại đây, ông tiếp tục dạy học trò, bốc thuốc chữa bệnh cho dân, đồng thời vẫn giữ mối liên hệ chặt chẽ với những sĩ phu yêu nước như Phan Văn Trị, Nguyễn Thông và lực lượng kháng chiến. Khi được tin Trương Định hy sinh (19-8-1864), nhà thơ xúc động, viết bài Văn tế và Mười hai bài thơ liên hoàn điếu người anh hùng. Mười bài thơ điếu Đốc binh Phan Tòng hy sinh trong trận Giồng Gạch (1868) vốn gốc là hương sư, bạn bè thân thiết với ông, lời lẽ rất thống thiết, có những câu thơ tâm huyết như lời thề tạc vào đá: "Tinh thần hai chữ pha sương tuyết, khí phách ngàn thu rỡ núi non". Khi Phan Thanh Giản uống thuốc độc tự tử sau khi để mất 3 tỉnh miền Tây, ông làm thơ điếu họ Phan với ít nhiều ngụ ý phê phán.
Thời gian này, Nguyễn Đình Chiểu sáng tác nhiều thơ văn bi tráng nhất, tiếc thương những đồng bào, bạn bè, đồng chí đã ngã xuống vì sự nghiệp độc lập, tự do của Tổ quốc. Nổi bật là thiên hùng bút Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh. Tất cả tâm huyết của nhà thơ như dồn vào những câu đau xé lòng người: "Dân sa nước lửa bấy chầy, giặc ép mỡ dầu hết sức". Đồng bào ở đây kể lại rằng chính ông đứng ra làm lễ tế những nghĩa sĩ Lục tỉnh ngay tại chợ Ba Tri. Khi đọc xong bài điếu, nước mắt chảy ràn rụa và ông lăn kềnh ra nằm bất tỉnh.
Tác phẩm Ngư tiều y thuật vấn đáp được viết vào giai đoạn cuối đời với một bút pháp già dặn hơn và một niềm tâm sự sâu lắng, xót xa hơn trước cảnh đất nước bị "dưa chia, khăn xé", nhưng không hề tuyệt vọng.
Bến Tre không phải là nơi sinh của nhà thơ, nhưng lại là nơi vinh hạnh được ông chọn để sống, hoạt động trong suốt 26 năm đầy biến cố phức tạp vào giai đoạn cuối đời và đã vĩnh viễn gởi xương cốt tại đây. Người ta kể lại rằng ngày đưa đám ma ông, cả cánh đồng An Bình Đông, nay là An Đức, trắng xóa khăn tang của những bạn bè, học trò, con cháu xa gần, những thân chủ được ông chữa khỏi bệnh và những đồng bào quanh vùng hoặc đã chịu ơn ông, hoặc vì mến mộ, cảm phục một tâm hồn lớn, một nhân cách lớn.
Hơn một phần tư thế kỷ, sống trên đất Bến Tre, Nguyễn Đình Chiểu đã để lại cho nhân dân ở đây một ảnh hưởng to lớn và một di sản tinh thần vô cùng quý báu, góp phần tạo nên truyền thống kiên cường, bất khuất của một vùng đất anh hùng. Thơ văn của ông đã thấm sâu vào tâm hồn của nhiều thế hệ con người Bến Tre và ngưng đọng lại ở đó, biến thành một sức mạnh vật chất giúp họ có thể chiến thắng được mọi gian nguy, thử thách gay go và khốc liệt nhất.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
0
1
Phonggg
28/06/2020 22:59:07
+4đ tặng

I. Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu.
Nguyễn Đình Chiểu sinh năm 1822 mất năm 1888, tên tự của ông là Mạnh Trạch, hiệu là Trọng Phủ. Ông sinh ra tại quê mẹ thuộc làng Tân Thới, phủ Tân Bình, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định. Quê cha của ông là ở Thừa Thiên Huế.
Đến năm 1833, Nguyễn Đình Chiểu theo cha đưa ra Huế ăn học. Năm 1849, mẹ ông mất. Ông về lại Bình Dương để chịu tang mẹ. Trên đường đi, ông bị ốm nặng và vì quá thương tiếc cho mẹ nên bị mù cả hai mắt. Từ đó ông chuyển sang học nghề thuốc. Vào năm 1859, Pháp vào Bến Tre, nên ông đã rời Bến Tre cũng là lúc ông sáng tác ra các tác phẩm như Chạy giặc, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ông vừa ốm nặng vừa thương khó mẹ nên bị mù cả hai mắt. Chi tiết này để lại dấu ấn ở nhân vật Lục Vân Tiên. Ông chuyển sang học thuốc. Năm 1859, giặc Pháp tràn vào sông Bến Nghé, Nguyễn Đình Chiểu về Cần Giuộc. Ông là một người có tấm lòng sắt son yêu nước, kiên trung một lòng không bao giờ chịu hợp tác với giặc.
Những chặng đường đi trong cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu đã ảnh hưởng rất lớn đến những tác phẩm của ông.
II. Về sự nghiệp văn học
1. Nội dung tư tưởng của Nguyễn Đình Chiểu.
– Đối với Nguyễn Đình Chiểu, ông luôn quan niệm văn chương chính là vũ khí chiến đấu của nhà văn, đó là vũ khí để ông lên án quân xâm lược, phê phán được xã hội phong kiến, triều đình nhu nhược, qua đó ông đề cao tinh thần chiến đấu của các nghĩa sĩ, của những người nông dân. Những tấm gương đã hi sinh vì sự nghiệp dân tộc.
– Văn chương chính là những thước đo, là những sáng tạo để tác giả phát huy các giá trị tinh thần
– Người nghĩa sĩ nông dân chính là hình tượng xuyên suốt trong các tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu, ông đã xây dựng rất thành công các nghĩa sĩ từ phương diện nội dung đến hình thức nghệ thuật. Có thể nói, Nguyễn Đình Chiểu chính là nhà văn của người nông dân, ông xây dựng hình tượng với tất cả những phẩm chất cao đẹp của những người anh hùng. Những người nông dân đó luôn hiền lành chăm chỉ với công việc, an phận nhưng khi có giặc đến họ chính là những người đầu tiên xung trận. Họ không sơ súng, không sợ sức mạnh của giặc. Họ đánh giặc bằng những vũ khí thô sơ, đơn giản của họ với tất cả sức mạnh và tinh thần yêu nước. Dù có thất bại đi chăng nữa, những kẻ thú sẽ vẫn mãi khiếp sợ tinh thần bất khuất, yêu nước của họ. Họ chính là niềm tự hào của dân tộc. Vì vậy, Nguyễn Đình Chiếu muốn đưa hình ảnh đó đên với thơ văn của mình.
– Các tác phẩm chính của ông như: Truyện Lục Vân Tiên, Dương Từ – Hà Mậu, Ngư Tiều y thuật vấn đáp, Văn tế nghĩa sĩ càn Giuộc, Văn tế Trương Định, Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh và một số bài thơ Đường luật.
2. Giá trị thơ văn Nguyễn Đình Chiểu
Sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu đều có nội dung ca ngợi phẩm chất đạo đức một lòng vì nước vì dân, tấm lòng yêu nước sâu sắc, và thể hiện trách nhiệm đối với sự nghiệp chống giặc dành thái bình . Do bị mù,ông không thể cầm dao, cầm gậy gộc đuổi giặc nên ông đã dùng cây viết để làm vũ khí, để đánh thức lòng yêu nước cho mọi người.
Về giá trị nghệ thuật: ông thương sử dụng lôi diễn đạt bình dị, mộc mạc gần gũi, lời văn đơn giản, ngôn ngữ dễ hiểu; ông thường kết hợp tính cổ điển với tính dân tộc, và sử dụng bút pháp lý tưởng hóa với tả thực. Ông luôn mang màu dắc dân tộc, màu sắc địa phương Nam Bộ vào những câu văn, câu thơ của mình.
III. Tổng kết
Nguyễn Đình Chiểu so với các nhà văn cùng thời ông, ta luôn thấy được một thái độ sống tích cực, khao khát, luôn vì dân vì nước hơn. Tuy bản thân ông không được đứng vào hàng ngũ cầm vũ khí chiến đấu, xông pha các trận mạc nhưng ông lại luôn truyền cảm hứng, truyền tình cảm cho họ, chia sẻ những cái hờn ghét vì mất nước, những nỗi mất mát vì hi sinh và cùng tạo nên một ngọn lửa bừng cháy quyết đấu vì bọn giặc vì bọn bán nước. Và Nguyễn Đình Chiếu đã lấy văn chương của mình làm vũ khí, làm nên sức mạnh tinh thần mà không có bất kỳ mũi giáo gươm đao nào có thể đánh lại sức mạnh đó.
1
0
toán IQ
28/06/2020 23:44:24
+3đ tặng

Nguyễn Đình Chiểu là một nhà văn hóa cận đại của Việt Nam sinh ngày 1 tháng 7 năm 1822 tại làng Tân Khánh, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định (thuộc Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay) và mất ngày 3 tháng 7 năm 1888 tại Ba Tri, Bến Tre.

 

Tiểu sử

Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu sớm trải qua những chuỗi ngày gia biến và quốc biến hãi hùng đã tác động đến nhận thức của ông. Ngay từ nhỏ, Nguyễn Đình Chiểu đã theo cha chạy giặc.

Năm 1833, Nguyễn Đình Huy (cụ thân sinh của Nguyễn Đình Chiểu) gửi Nguyễn Đình Chiểu cho một người bạn ở Huế để ăn học.

Năm 1843 ông đỗ Tú tài ở trường thi Gia Định, năm 1847 ông ra Huế học để chờ thi khoa Kỷ Dậu 1849. Nhưng sau đó, mẹ ông mất, ông trở về chịu tang mẹ, dọc đường vất vả lại thương mẹ khóc nhiều nên ông bị bệnh rồi mù cả đôi mắt. Về quê, chịu tang mẹ xong, ông lại bị một gia đình giàu có bội ước. Từ ấy ông vừa dạy học vừa làm thơ sống giữa tình thương của mọi người. Về sau có người học trò cảm nghĩa thầy đã gả em gái cho. Nhân dân thường gọi ông là Đồ Chiểu hay Tú Chiểu.

Khi Pháp xâm chiếm Gia Định, ông về ở Ba Tri, tỉnh Bến Tre, tiếp tục dạy học và làm thuốc. Vốn nhiệt tình yêu nước, ông liên hệ mật thiết với các nhóm nghĩa binh của Đốc binh Nguyễn Văn Là, lãnh binh Trương Định. Ông tích cực dùng văn chương kích động lòng yêu nước của sĩ phu và nhân dân. Biết ông là người có uy tín lớn, Pháp nhiều lần mua chuộc nhưng ông vẫn nêu cao khí tiết, không chịu khuất phục.

Người Việt Nam đánh giá ông không những là một nhà thơ lớn mà còn là một nhà yêu nước, một nhà văn hóa Việt Nam của thế kỉ 19.

Quan điểm văn chương

Nguyễn Đình Chiểu tuy không nghị luận về văn chương nhưng ông có quan điểm văn chương riêng. Quan điểm "văn dĩ tải đạo" của ông khác với quan niệm của nhà Nho, càng khác với quan niệm chính thống lúc bấy giờ. Nhà Nho quan niệm Đạo là đạo của trời, còn Đồ Chiểu trên nguyên tắc đạo trời được đề cao nhưng trong thực tế đạo làm người đáng quý hơn nhiều. Đó là quan niệm bao trùm văn chương Đồ Chiểu.

Quan điểm văn chương Đồ Chiểu tuy không được tuyên ngôn nhưng đây là quan điểm tiến bộ và gần gũi với văn chương dân tộc: Văn chương chiến đấu, vị nhân sinh, đầy tinh thần tiến công và tinh thần nhân ái.

Tác phẩm chính

  • Lục Vân Tiên sáng tác trước khi Pháp xâm lược Nam Kỳ, có tính chất tự truyện.
  • Dương Từ Hà Mậu (chưa xác định thời điểm sáng tác)
  • Ngư Tiều y thuật vấn đáp (chưa xác định thời điểm sáng tác)
  • Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (1861)
  • Mười hai bài thơ và bài văn tế Trương Định (1864)
  • Mười bài thơ điếu Phan Tòng (1868)
  • Văn tế nghĩa sĩ trận vong lục tỉnh (1874)
  • Hịch kêu gọi nghĩa binh đánh Tây (chưa xác định thời điểm sáng tác)
  • Hịch đánh chuột (chưa xác định thời điểm sáng tác).

Thông tin thêm

Con gái thứ năm của ông là Nguyễn Thị Ngọc Khuê tức nữ sĩ Sương Nguyệt Anh và con thứ bảy là Nguyễn Đình Chiêm đều nổi tiếng trong giới văn chương.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Trắc nghiệm Ngữ văn Đại học mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư