Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Cảm nhận của em về vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật Thúy Kiều trong 2 đoạn thơ đầu tiên bài Kiều ở lầu Ngưng Bích

10 trả lời
Hỏi chi tiết
4.934
6
5
Hải D
29/07/2020 09:31:03
+5đ tặng

Thúy Kiều là nhân vật lí tưởng của Nguyễn Du với sự trọn vẹn về tài và sắc nhưng cuộc đời Kiều lại long đong, lận đận. Qua nhân vật Thúy Kiều, tác giả muốn gửi gắm những khát vọng sống, khát vọng yêu mạnh liệt nhất. Trong những năm tháng đày đọa bản thân, cảnh kiều sống ở lầu Ngưng Bích khiến người đọc rưng rưng. Nguyễn Du đã gợi tả thành công hình dáng và tâm lí của Thúy Kiều khi sống ở chốn lầu xanh qua đoạn “Kiều ở lầu Ngưng Bích”.

 

Cuộc đời của Thúy Kiều sau khi rơi vào tay Mã Giám Sinh là những chuỗi ngày đằng đằng nhớ thương và nước mắt. Thúy Kiều bị chà đạp và vùi dập không xót thương. Những kẻ mua thịt bán người đã không từ mọi thủ đoạn để có được Kiều, và rồi để hành hạ Kiều. Thúy Kiều đã định tìm đến cái chết để giải thoát bản thân nhưng Tú Bà đã biết được và đem Kiều sống tại lầu Ngưng Bích – một nơi lạnh lẽo tình người. Thực chất hành động này của mụ chính là giam lỏng kiều, dần dần buộc Kiều tiếp khách.

Khung cảnh lầu Ngưng bích khiến người đọc phải xót xa:

Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.

Cụm tù “Bát ngát xa trông” đã gợi lên sự vô tận của không gian, của thiên nhiên. Đâu là bến bờ, đâu là điểm dừng chân hình như là không có. Một khung cảnh cô liêu, hoang lạnh đến rợn người. Thúy Kiều nhìn xa chỉ thấy những dãy núi, những cồn cát bay mù trời. Nàng chỉ biết làm bạn với cảnh vật vô tri, vô giác, ảm đảm và quạnh quẽ đến thê lương. Chỉ một vài chi tiết nhưng Nguyên Du đã khắc họa thành công khung cảnh lầu Ngưng Bích đơn côi.

Trong khung cảnh này, Thúy Kiều vẫn luôn nhung nhớ về chốn cũ, về người xưa. Nỗi nhớ ấy da diết và day dứt:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

Tin sương luống những rày trông mai chờ

Bên trời góc bể bơ vơ

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai

Dù trong hoàn cảnh éo le như thế này nhưng tấm lòng son của Thúy Kiều vẫn nhung nhớ tới một người khi tưởng lại những kỉ niệm êm đẹp từng có. Kiều xót xa kkhi nghĩ tới cảnh Kim Trọng còn mong chờ tin tức của nàng. Rồi nhìn lại mình, thấy nhơ nhuốc và hoen ố. Thúy Kiều đã không thể giữ trọn lời hứa với chàng Kim. Nàng nằng “tấm son gột rửa bao giờ cho phai”, những gì nang chịu đựng, những gì kẻ xấu làm với này biết bao giờ chàng Kim thấu, biết bao giờ có thể gột rửa đây? Một tiếng lòng đầy đau đớn và thê lương.
Nghĩ về người yêu đã xót, Thúy Kiều còn xót xa hơn khi nghĩ về cha mẹ:

Xót người tựa cửa hôm mai

Quạt nồng ấm lạnh những ai đó chờ

Sân Lai cách mấy nắng mưa

Có khi ngồi gốc tứ đã vừa người ôm

Thúy Kiều chua xót khi nghĩ cảnh cha mẹ đã già yếu, héo hon từng ngày. Nàng lo lắng không biết có ai chăm sóc cho cha mẹ hay không. Nàng ân hận và chua xót khi không được phụng dưỡng mẹ già. Một người con gái hiếu thảo, nhưng đành lặng lẽ nhớ và lặng lẽ chờ mong ngày đoàn tụ.

Thúy Kiều – một người con gái dù sống trong cảnh nhơ nhuộc nhưng chữ hiếu và chữ tình vẫn còn da diết trong trái tim của Kiều.

Con người đã buồn thê lương, nhìn ra cảnh bật dường như càng thê lương hơn:

Buồn trông của bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cảnh buồn xa xa

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu

 

Những câu thơ chua xót, cứa vào lòng người người đọc nhiều đớn đau mà Kiều phải trải qua. “Chiều hôm” là thời gian mà nỗi buồn cứ thế ùa về, hiển hiện bao nhiêu thương nhớ nhưng đành câm lặng. Điệp từ “Buồn trông” như khắc khoải, như chờ mong và như nén lại trong lòng. Thúy Kiều ví mình như “hoa trôi” vô định, không có điểm dừng, không biết về đâu.

Màu xanh xuất hiện ở cuối đoạn trích dường như càng khiến cho cảnh thêm tái tê hơn:

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

Buồn trông gió cuốn mặt ghềnh

ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Một bức tranh chỉ có màu “buồn”, buồn đến thê thảm và buồn đến não nề. Dường như người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Màu cỏ, màu mây, màu nước, đều là màu “xanh xanh”, nhưng không phải màu xanh tươi mới mà là màu xanh đến rợn người, mờ mịt và đầy tối tăm.

Mỗi câu thơ, mỗi hình ảnh để khắc họa được tâm trạng đầy ngổn ngang giữa một khung cảnh ảm đạm, tái tê khiến người đọc không cầm được cảm xúc. Nguyễn Du với những nét vẽ tài tình đã vẽ lên một bức tranh tuyệt đẹp, một vẻ đẹp đến thê lương cuộc sống của Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích.



 

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
4
5
Hải D
29/07/2020 09:31:31
+4đ tặng

Trong Truyện Kiều, có nhiều đoạn thơ tả rất hay nỗi cô đơn, nhớ nhà của Kiều, nhưng không đoạn thơ nào thể hiện được trạng thái bi đát, bế tắc, đơn côi như đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích.

Sau khi biết mình bị bán vào lầu xanh, Kiều đã tự tử nhưng không chết. Biết Kiều tính khảng khái, cứng rắn, Tú Bà cho Kiều ở riêng trong lầu Ngưng Bích để thực hiện âm mưu khác. Trong thời gian này, sức khỏe của nàng mới được hồi phục, nhưng tình cảm lại rất cô đơn. Chết thì nàng không chết nữa, vì sợ bị liên lụy đến cha mẹ, nhưng sống thì sẽ sống như thế nào? Một thân một mình nơi hoàn toàn xa lạ, từ cổ vỏ thân? Đây là đoạn thơ bay nổi tiếng trong Truyện Kiều, cực tả nỗi lòng cô đơn, buồn thảm, bi đất của nàng. 

Nguyễn Du vẽ ra khung cảnh xung quanh theo con mắt buồn, cô đơn của  Kiều… Hai chữ khóa xuân (điển tích Tam quốc) rất đẹp nhưng thực chất là Kiều bị giam lỏng. Lầu Ngưng Bích cao quá, trơ trọi quá, Kiều chỉ còn ở chung, làm bạn với non xa, trăng gần. Một cảm giác trơ trọi, rợn ngợp, lơ lửng nhìn ra em thấy không gian bao la, xa vời: non xa, xa trông, cát vàng, cồn nọ, bụi hổng, dặm kia… tịnh không bóng cây, bông nhà, bóng người. Về thời gian, sớm làm bạn vớì mây, khuya đêm làm bạn với đèn, thức ngủ một mình thui thủi, triền miên thật là bé bàng, chán ngán vô vọng. Buồn vì cảnh một phần, phần khác là vì tình: Đó là nỗi buồn chia sẻ lòng nàng. 

Thứ hai, nhà thơ cực tả nỗi lòng thương nhớ người thân.

Người đầu tiên được nàng nhớ là Kim Trọng – người tình đầu tiên mà đã cùng  nàng thề non hẹn biển… Trong tâm trí nàng vẫn còn như in hình ảnh hai người sẽ cùng nhau uống rượu thế bối dưới trăng. Thương nhất là việc Kim Trọng chưa biết Kiều đã thuộc về người khác, vẫn hàng đêm ngày thương nhớ nàng uổng công. Hết thương Kim Trọng lại thương mình… Tấm son là tấm lòng son sắt thủy chung của Kiều với Kim Trọng. Mối tình này không bao giờ nàng có thể quên. Kế đến là thương nhớ cha mẹ già… Tựa cửa là hình ảnh ngóng trông. Tưởng tượng cha mẹ đang tựa cửa trông ngóng nàng về. Cảm thấy xa nhà đã rất lâu (cách mấy nắng mưa) và cha mẹ đã già (gốc từ đã vừa người ôm).

Hiển nhiên Kiều cũng nhớ hai em, song chàng Kim và cha mẹ vẫn là mối tình  cảm tha thiết gắn bó nhất trong lòng nàng.

Cuối cùng, nhìn đến tình cảnh trống trải, xa vắng mà nghĩ đến thân phận… Đây là những câu thơ réo rất bậc nhất về nỗi buồn luân lạc, bơ vơ. Mỗi câu như gợi lên một nỗi buồn thảm, hãi hùng, lắng sâu trong kí ức… 

 

 

Tám câu thơ, mỗi cặp câu gợi một nỗi buồn sâu thẳm. 

Buồn trông là buồn mà nhìn xa, buồn mà trông ngóng một cái gì đó mơ hồ sẽ đến làm đổi thay tình trạng hiện tại, nhưng chỉ vô vọng, hão huyền: Hình như nàng đang mong một con thuyền, một cánh buồm, nhưng cánh buồm chỉ thấp thoáng xa xa, không rõ như một ước vọng mơ hồ, mỗi lúc một xa. Lại trông ngọn nước từ cửa sông chảy ra biển, ngọn sóng xô đẩy cánh hoa trôi dạt, không biết về đâu. Ngồi trên lầu cao, làm sao Kiều thấy được cánh hoa trên dòng nước? Đây chỉ là cảnh tưởng tượng về số phận của mình. Lại trông chân mày, cánh đồng, mặt đất một màu mờ mịt, xanh xanh, chẳng có chân trời. Trông gió cuốn mặt duềnh (Chỗ ăn sâu vào đất liền thành vũng, vụng). Gió cuốn làm sóng vỗ dào dạt, ầm ầm. Tất nhiên, dù lầu Ngưng Bích có sát bờ biển cũng không thể nghe rõ tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi được. Đó là hình ảnh vừa thực vừa ảo. Người cảm thấy sóng vỗ dưới chân, đầy hiểm họa như muốn nhấn chìm nàng xuống vực.

Tám câu thơ là thực cảnh – là tâm cảnh. Toàn là hình ảnh của sự vô vọng, dạt trôi, bế tắc và chao đảo, nghiêng đổ. Đây là lúc tình cảm của nàng Kiều mong manh nhất, yếu đuối nhất, là lúc nàng dễ rơi vào cạm bẫy, như nàng sẽ rơi vào tay Sở Khanh ngay sau đó.

Không gian bao la, rợn ngợp, không một bóng người. Thời gian như dồn lại, không biết bao nhiêu buổi sáng, buổi chiều lặp lại. Con người trở nên nhỏ bé, bất lực cô đơn, trơ trọi. Nghệ thuật góp phần kéo dài nỗi buồn vô vọng, vô tận của con người.


 
5
5
Hải D
29/07/2020 09:32:00
+3đ tặng

Gia đình bất ngờ gặp tai biến, cha và em bị bắt, Kiều phải tự nguyện bán mình để cứu họ, nàng không thể ngờ rằng mình lại bị lọt vào tay bọn buôn thịt bán người. Nàng đã toan bề tự vẫn, nhưng Tú Bà cứu chữa kịp, đưa nàng ra lầu Ngưng Bích cùng với lời hứa hẹn ngon ngọt. Đến với đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích’’ ta sẽ thấm thía nỗi buồn nhớ, cô đơn lo âu của Kiều trong những ngày tháng nàng bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích

Ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tâm tình đầy xúc động từ nỗi buồn mênh mang vô tận đã lan toả, thấm đượm vào cảnh vật. Một mình Kiều sống trong cảnh cấm cung bơ vơ nơi quê người đất khách. Không gian vắng lặng, hoang sơ không một bóng người, chỉ có thiên nhiên làm bạn với Kiều;

“Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”.

Ngày nàng ngắm núi xa, cảnh núi non xa mờ gợi lên nỗi buồn, niềm thương nhớ da diết với cha mẹ, người yêu. Đêm nàng ngắm vầng trăng và cảm thấy nó rất gần như ở chung với mình. Tuy chỉ là những câu thơ tả cảnh nhưng chúng ta cũng thấy hình ảnh Kiều cô đơn. Không gian thơ càng mở rộng bốn bề bát ngát thì hình ảnh Kiều càng trở nên bé nhỏ, côi cút bơ vơ. Nàng không có ai để cùng chia sẻ nỗi lo âu sợ hãi của người thiếu nữ lần đầu tiên xa nhà. Giữa nền thiên nhiên mênh mông rộng lớn, bát ngát ấy, một nỗi niềm choáng ngợp tâm hồn nàng là nỗi bẽ bàng. Đó là nỗi chán ngán cô đơn, chán cho cảnh ngộ của mình, thân phận mình xinh đẹp là thế, tài hoa là thế mà giờ đây chỉ còn biết làm bạn với mây buổi sớm, ngọn đèn đêm khuya:

"Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng."

Cảnh ở đây gắn vào tình người, làm nên bức tranh tâm tình sinh động và bức tranh này được hình thành bằng tâm cảnh của Thuý Kiều, đó là bi kịch nội tâm.

Một mình cô đơn lẻ bóng trước lầu Ngưng Bích, trong lòng Kiều trào lên nỗi nhớ những người thân yêu. Nàng hướng tình cảm của mình tới Kim Trọng. Trong kí ức của nàng kỉ niệm của đêm thề nguyện đính ước dưới trăng vẫn còn đang nóng hổi, tươi rói:

 

"Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ."

Giờ đây Kiều đang ngóng đợi hình bóng chàng Kim với nỗi sầu tư. Nguyễn Du đã miêu tả chính xác, qua từ "tưởng" đó là tưởng nhớ, tưởng tượng lại. Không những thế, sau tình cảm bồi hồi da diết nhớ đến Kim Trọng, trái tim Kiều lại thổn thức tình cảm của đứa con xa nhà nhớ về cha mẹ. Tự nguyện bán mình để lấy tiền chuộc cha, Kiều đã làm tròn chữ hiếu. Nhưng trong lòng người con gái hiếu thảo vẫn canh cánh một nỗi xót xa khi cha mẹ đã già mà không có mình bên cạnh để nâng giấc, chăm sóc. Nàng hình dung ra bóng dáng song thân đang mỏi lòng tựa cửa ngóng tin con và xót xa tự hồi giờ đây ai là người đang thay mình quạt nồng, ấp lạnh:

"Xót người tựa cửa hôm mai

Quạt nồng ấp lạnh, những ai đó giờ"

Nhìn đâu Kiều củng thấy buồn, đúng như Nguyễn Du đúc kết: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu. Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, Kiều dù đang bơ vơ nơi góc bể chân trời nhưng nàng không hề nghĩ tới mình, luôn lo lắng cho người khác. Dù trong cảnh ngộ nào Kiều cùng ngời sáng lên đức hi sinh tấm lòng vị tha, nhân hậu.

Qua ngòi bút thiên tài của Nguyễn Du, nỗi buồn của Kiều càng được tô đậm thêm qua mỗi lần điệp từ “buồn trông” được cất lên là mở ra một bức tranh thiên nhiên và bức tranh tâm trạng. Không gian bao la bát ngát nơi cửa bể vào lúc chiều tà, bóng xế để gợi lên trong lòng người nỗi nhớ thương. Nhìn cánh buồm thấp thoáng xa xa, trong lòng Kiều trào lên nỗi khát khao cùng cánh buồm về quê hương. Rồi trông cánh hoa mỏng manh trôi dạt trên dòng nước cuốn, nàng nghĩ tới thân phận lênh đênh của mình. Hình ảnh nội cỏ rầu rầu giữa một không gian chân mây, mặt đất gợi trong lòng nàng nỗi lo lắng cho một tương lai mờ mịt:

"Buồn trông cửa bề chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh"

Âm thanh của tiếng sóng ầm ầm trong cảnh gió cuốn mặt duềnh là nỗi sợ hãi của Kiều trước bão tố cuộc đời đang chờ đón nàng phía trước. Nàng tưởng như mình đang ngồi giữa biển khơi, bốn bên sóng dữ gào thét, dội cả vào tâm hồn, vây bủa lấy nàng:

"Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi."

Bức tranh thiên nhiên ấy cũng là bức tranh tâm cảnh trong tâm hồn Kiều đầy lo âu, thấp thỏm, bất an.

Nguyễn Du quả là bậc thầy trong việc miêu tả nội tâm nhân vật và sử dụng các biện pháp tu từ rất độc đáo. Đó là một bức tranh tả cảnh ngụ tình thể hiện một đặc sắc trong bút pháp nhà thơ: cảnh và tình bao giờ cũng hoà quyện với nhau. Nhưng phải chăng đặc sắc nhất vẫn là tình của nhà thơ với nhân vật của mình, đối với con người và đối với cuộc đời, nói một cách khác, đó là giá trị nhân văn của đoạn trích, bắt nguồn từ tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du.

Qua đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, hẳn người đọc sẽ có suy nghĩ về nhân vật Kiều, một cô gái chung thuỷ với người yêu, hiếu thảo với cha mẹ. Và ta càng căm giận xã hội bất công, tàn bạo đã đày đọa những con người tài hoa như nàng phải sa vào kiếp sống tủi nhục ở chốn lầu xanh.


 
6
5
Hải D
29/07/2020 09:32:17
+2đ tặng

“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

Tin sương luống những rày trông mai chờ.

Bên trời góc bể bơ vơ,

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.

Xót người tựa cửa hôm mai,

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?

Sân Lai cách mẩy nắng mưa,

Có khi gốc tử đã vừa người ôm”

Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa Thế giới, tên tuổi của ông gắn liền với tác phẩm ” chuyện Kiều”  – kiệt tác số một của văn học trung đại Việt Nam, ngoài giá trị nội dung sâu sắc ” Thúy Kiều” còn rất thành công về nghê thuật. Với nghệ thuật tả người qua bút pháp ước lệ tương đương, tả cảnh thiên nhiên qua bút pháp tả và hợi thì nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật cũng rất xuất sắc. Tiêu biểu là đoạn trích ” Kiều ở lầu Ngưng Bích” và điển hình là tám câu thơ trên đã khắc họa một cách xúc động về nỗi nhớ người yêu, nhớ bố mẹ của Thúy Kiều, qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm của chính nhân vật.

Sau khi biết mình bị lừa vào trốn lầu xanh Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà vì sợ mất vốn lẫn lời nên đã hứa đợi Kiều bình phục sẽ gả nàng vào nơi tử tế rồi mụ đưa Kiều ra lầu Ngưng Bích, thực chất là giam lỏng nàng. Thân gái một mình nơi đất khách quê người Kiều sống ở lầu Ngưng Bích với tâm trạng cô đơn buồn tủi. Trước mắt nàng chỉ là một không gian mênh mông rộn ngộp với non xa trăng gần, với những cồn cát bụi bay mù mịt, còn thời gian thì tuần hoàn khép kín không gian và thời gian ấy như giam hãm con người, khiến nàng cảm thấy cô đơn buồn tủi đau đơn, tan nát cõi lòng

Và tám câu thơ tiếp theo sẽ tràn đầy cảm xúc về nỗi nhớ thương người yêu, nhớ cha mẹ của Thúy Kiều.

Trước hết Kiều nhớ đến Kim Trọng.

“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

Tin sương luống những rày trông mai chờ”

Chữ tưởng ở đây có nghĩa là hồi tưởng, nhớ lại. Nhớ về Kim Trọng là nhớ về người yêu nên bao giờ Kiều cũng nhớ về lời thề đôi lứa. ” chén đồng” là chén rượu thề nguyền, đồng lòng, đồng dạ mà Kiều và Kim Trọng đã uống dưới ánh trăng vằng vặc:

” Vầng trăng vằng vặc giữa trời

Đinh linh hai miệng một lời song song”

Vầng trăng kia vẫn còn, chén rượu thề nguyền chưa ráo mà nay tình duyên đã chia cắt đột ngột. Câu thơ như có nhịp thôn thức của trái tim yêu thương đang rỉ máu.

Nhớ về Kim Trọng đau đớn hình dung là cảnh ở Liêu Dương xa xôi cách trở, Kim Trọng không hề hay biết Kiều đã bán mình chuộc cha mà vẫn hướng về Kiều chờ tin mà uổng công vô ích. Càng nhớ chàng bao nhiêu thì Kiều càng thương cho số phận mình bấy nhiêu:

“Bên trời góc bể bơ vơ

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”

Thương thân mình bơ vơ trên trời, góc bể, càng nuối tiếc cho mối tình đầu. câu thơ Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.” có thể hiểu tấm son của Kiều đã bị hoen ố nàng không còn là một thiếu nữ phòng khuê, nhưng có thể hiểu ” tấm son” là tấm lòng chung thủy son sắc của nàng dành cho Kim Trọng chẳng bao giờ nguôi ngoai. Đặt trong hoàn cảnh cô đơn Kiều đã tạm để tấm lòng mình lắng xuống va nhớ đến Kim Trọng. Đó là sự vị tha và tấm lòng chung thủy của một người.

Chưa vơi nỗi nhớ người yêu, tâm can Kiều lại càng chồng chất nỗi nhớ thương cha mẹ, nến nhớ tới Kim Trọng nàng “tưởng” thì nhớ tới cha mẹ nàng ” xót”.

“Xót người tựa cửa hôm mai,

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?

Sân Lai cách mẩy nắng mưa,

Có khi gốc tử đã vừa người ôm”

Kiều xót xa khi bố mẹ đã già yếu mà ngày ngày vẫn tựa cửa ngóng tin con, nàng còn xót xa bởi mình không tự tay chăm sóc được cha mẹ và hiện thời ai là người chăm nom. Thành ngữ “Quạt nồng ấp lạnh” điển cổ ” sân lai” ” gốc tử” đều nói lên tâm trạng nhớ thương tấm lòng hiếu thảo của Kiều.

Nhớ về cha mẹ còn tưởng tượng ra cảnh giờ đây quê nhà đã đổi thay, mà sự đổi thay khiến nàng lo lắng nhất là “Có khi gốc tử đã vừa người ôm” nghĩa là cha mẹ mỗi ngày thêm một già yếu nàng thì chẳng thể nào chăm sóc. Cụm từ” cách máy nắng mưa” vừa nói được thời gian xa cách qua bao mùa mưa nắng vừa nói lên sự tàn phá của tự nhiên, của nắng mưa đối với con người và cảnh vật, lần nào nhớ về cha mẹ Kiều cũng ” nhớ ơn chín chữ cao sâu” và luôn ân hận day dứt vì đã phụ công sinh thành nuôi dưỡng của cha mẹ. Nỗi nhớ của nàng được gửi gắm vào chiều dài thời gian, chiều sâu không gian bởi vậy mà càng thêm sâu xa. Đến đây ta hiểu tại sao trong nỗi nhớ thương Kiều lại nhớ Kim Trọng trước cha mẹ sau, phải chăng trong hai chữ tình hiếu  nàng đã tạm yên với chữ hiếu bởi khi bán mình chuộc cha Kiều đã phần nào đền đáp được công ơn sinh thành nuôi dưỡng của cha mẹ. Còn với Kim Trọng trước khi về Liêu dương chịu tang chú, chàng đã kỳ vọng vào Kiều bao nhiêu.

 ” Giữ vàng giữ ngọc cho hay

Cho đành lòng kẻ chân mây với trời”

Vậy là giờ đây, tấm thân Kiều đã bị hoen ố, nàng đã phụ bạc chàng Kim vì thế nàng luôn ân hận, day dứt như một kẻ phụ tình. Lỗi đau ấy cứ xé tâm can nàng khiến nàng luôn nhớ đến Kim Trọng, nhớ người yêu trước nhớ cha mẹ sau, điều đó hoàn toàn phù hợp với quy luật tâm lý của Kiều. Đồng thời thể hiện sự tinh tế trong ngòi bút miêu tả tâm lý của Kiều. Đồng thời thể hiện sự tinh tế trong ngòi bút miêu tả tâm lý của Nguyễn Du. Điều đáng lưu ý là dù trong hoàn cảnh cô đơn lở lầu Ngưng Bích Kiều là người đáng thương nhất nhưng trái tim Kiều đầy yêu thương nhân hậu vị tha. Nàng là người tình thủy chung, là người con rất mực hiếu thảo, thật đáng trân trọng biết bao.

Tóm lại bằng việc sử dụng ngôn ngữ độc thoại nội tâm, những từ ngữ hình ảnh tinh tế. Qua đoạn trích ” Kiều ở lầu Ngưng Bích” nói chung và tám cây thơ trên nói riêng Nguyễn Du đã khắc họa thành công và thật xúc động lỗi nhớ người yêu, nhớ cha mẹ của Thúy Kiều, qua đây cho thấy, Kiều không chỉ là một cô gái tài sắc vẹn toàn mà còn là người thủy chung hiếu nghĩa. Đồng thời đoạn thơ cho ta thấy được tấm lòng ngơi ca trân trọng vẻ đẹp phẩm chất của con người, đặc biệt là người phụ nữ. Đây chính là biểu hiện cảm hứng nhân đạo của Nguyễn Du trong Truyện Kiều.

5
5
Hải D
29/07/2020 09:33:00
+1đ tặng

Một trong những nét đặc sắc nghệ thuật trong "Truyện Kiều" của Đại thi hào Nguyễn Du là bút pháp tả cảnh ngụ tình. Đoạn trích " Kiều ở lầu Ngưng Bích" là bức tranh tâm trạng Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích. Đoạn thơ miêu tả nội tâm nhân vật thành công nhất trong Truyện Kiều. Đặc biệt là nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đầy xúc động.

Hơn 22 câu thơ lục bát có âm điệu nhẹ nhàng, man mát, mênh mang lỗi buồn. Hầu như không dòng nào thậm trí từ, hình ảnh, âm thanh trong đoạn thơ không ít nhiều thể hiện tâm trạng của nhân vật chữ tình. Tâm trạng bẽ bàng, buồn nhớ lo lắng khi một mình trước lầu Ngưng Bích nhìn xa.
 Bốn câu thơ đầu là bức tranh thiên nhiên quanh lầu cũng là bức tranh tâm trạng.

"Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung

Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia".

 Hoàn cảnh của Kiều lúc này mông lung bi thảm. Kiều được Tú Bà cho ra ở lầu Ngưng Bích nhưng thực chất bị giam lỏng. Nàng trơ chọi giữa không gian mênh mông, hoang vắng. Từ trên lầu cao, nàng ngắm vọng ra bốn phía bát ngát, dãy núi mờ xa, những cồn cát vàng trải dài vô tận… Nhìn lên chỉ có mảnh trăng gần ở chung. Những hình ảnh non xa, trăng gần, cát vàng, bụi hồng có thể là cảnh thực mà cũng có thể là hình ảnh mang tính ước lệ. Để gợi sự mênh mông hoang vắng rợn nghộp không gian. Qua đó diễn tả tâm trạng bẽ bàng tội nghiệp của Kiều.

"Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,

 

 Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng".

Sớm sớm nhìn mây, đêm đêm đối diện với ngọn đèn cảnh người cung thao thức sẻ chia. Một mình với tấm trăng – người bạn gần gũi thân thiết nhất.

 Trong cảnh ngộ một mình bơ vơ nơi chân trời góc bể, cô đơn tuyệt đối, Kiều càng nhớ tới những người thân yêu. Nỗi nhớ đầu là nỗi nhớ chàng Kim.

"Tưởng người dưới nguyệt chén đồng.

Tin sương luống những rày trông mai chờ.

Bên trời góc bể bơ vơ,

Tấm thân gột rửa bao giờ cho phai".

Kiều sót xa hình dung Kim Trọng vẫn chưa biết tin mình bị bán mình chuộc cha, bị đưa đẩy vào góc bể chân trời mà vẫn ngày đêm mong ngóng, chờ đợi mỏi mòn. Nàng thấy mình có lỗi, dằn vặt.
" Tấm son… cho giai". Nàng cho mình bội bạc tình với Kim Trọng, bội ước lời nguyện ước với chàng Kim. Bao nỗi dằn vặt vò sẻ biết khi nào, bao giờ mới nguôi ngoai.

Xót người tựa cửa hôm mai

Quạt nồng ấm lạnh những ai đó chờ

Sân Lai cách mấy nắng mưa

Có khi ngồi gốc tứ đã vừa người ôm

Kiều thương cho cha mẹ khi sáng khi chiều tựa cửa ngóng tin con, chông mong sự đỡ đần. Nàng xót xa lúc cha mẹ tuổi già sức yếu, mà nàng không được tự tay chăm sóc và hiện thời ai người chông nom.
Thành ngữ " Quạt lồng ấp lạnh", điển cố " săn lại", " gốc tử" đều nói lên tâm trạng nhớ thương tấm lòng hiếu thảo của Kiều, nàng tưởng tượng cảnh nơi quê nhà tất cả đã đổi thay. Mà sự đổi thay lớn nhất là gốc tử đã vừa người ôm – cha mẹ ngày càng già yếu, cụm từ " cách mấy nắng mưa" vừa nói được thời gian cách xa vừa nói sức mạnh tàn phá của tự nhiên, nắng mưa với cảnh vật con người khi nhớ về cha mẹ. Kiều luôn ân hận đã phụ công sinh thành, phụ công nuôi dạy của cha mẹ. Trong cảnh ngộ " Kiều ở lầu Ngưng Bích" Kiều là người tình thủy chung, hiếu thảo, người có tấm lòng vị tha. Nỗi nhớ người thân của Kiều được diễn tả qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm lên càng chân thực cảm động.

 Sau phút giây trở về với người thân yêu, Kiều đã trở lại với cảnh ngộ chính mình.

Tám câu cuối là đoạn thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc là thực cảnh mà cũng là tâm cảnh, mỗi cảnh khơi gợi ở Kiều nỗi buồn khác nhau, những lí do buồn khác nhau, mỗi cặp lục bát tạo thành một cảnh.

 

 

" Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?"

Đây là bức tranh chiều hôm nhớ nhà. Cảnh chiều hôm muôn thỏa buồn nhớ, lại giữa không gian mênh mông cửa biển chỉ có một cánh buồm thấp thoáng xa xa, cảnh ấy gợi trong lòng người lưu lạc lỗi cô đơn buồn nhớ da diết về cha mẹ quê nhà. Đại từ ai sang âm điệu sầu thương. Câu thơ là một câu hỏi tu từ nhân lên như một niềm khao khát hoài vọng chông ngóng.

"Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?"

Cái nhìn của Kiều hướng về không gian gần hơn, nhìn cánh hoa trôi giữa dòng nước, Kiều lại buồn cho thân phận trôi nổi, vô định, lại sót xa cho số phận của mình. Hình ảnh mang ý nghĩa ẩn dụ gợi nỗi thương da diết. Câu hỏi tu từ ở đây như một lỗi băn khoăn tự thương cho bản thân.

"Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh".

Cảnh vật khá ấn tượng, không phải cỏ non xanh tận chân trời đầy sức sống nhưng mà là nộ cỏ rầu rầu, héo úa buồn bã cùng mành xanh trải dài từ mặt đất đến chân mây, càng khiến Kiều thêm vô vọng về cuộc sống tẻ nhạt, khô quạnh ở nơi này, cảnh mờ mịt như tương lai cũng cờ mịt của Kiều.

"Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi".

 Chiều đã muộn, màu sắc như tối hơn, cảnh hiện lên mờ nhạt, âm thanh rộn lên mạnh hơn tiếng sóng kêu như báo trước sóng gió dữ dằn của đời Kiều hay cũng là tiếng kêu đau đớn của Kiều đồng vong với thiên nhiên, Kiều không chỉ buồn mà lo sợ với sóng gió cuộc đời. Sóng gió ở đây là những ẩn dụ chỉ những tai hooaj đang rình dập đổ xuống cuộc đời Kiều. Như vậy cảnh của đoạn thơ cuối được nhìn từ xa đến gần. Màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tỉnh đến động để diễn tả nỗi buồn man mác, mông nung đến âu lo kinh sợ. Bốn cặp câu lục bát sử dụng điệp ngữ " Buồn trông – nghĩa là buồn mà nhìn xa " mà không ngóng một cái gì mơ hồ, vô vọng. Điệp ngữ này kết hợp với những hình ảnh các từ láy: Thấp thoáng, xa xa, man mác, rầu rầu, xanh xanh, ầm ầm tạo lên nhịp điệu diễn tả nỗi buồn ngày càng tăng, điệp ngữ " Buồn trông" tạo âm hưởng trầm buồn là điệp khúc đoạn thơ, điệp khúc tâm trạng.

Đoạn trích với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc, Nguyễn Du đã khắc họa bức tranh phong phú sinh động giữa tả ngoại cảnh, tâm cảnh, tâm trạng Kiều. Bẽ bàng, sót xa, thẫn thờ khi lâm vào cảnh ngộ bơ vơ, bế tắc. Qua đoạn trích người đọc thấy được tấm lòng thương cảm, sẻ chia sót xa của tác giả đối với người phụ nữ tài sắc đức hạnh. Đoạn trích thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc.



 
5
5
Hải D
29/07/2020 09:33:30

Nguyễn Du là bậc thầy về tả cảnh. Nhiều câu thơ tả cảnh của ông có thể coi là chuẩn mực cho vẻ đẹp của thơ ca cổ điển. Nhưng Nguyễn Du không chỉ giỏi về tả cảnh mà còn giỏi về tả tình cảm, tả tâm trạng. Trong quan niệm của ông, hai yếu tố tình và cảnh không tách rời nhau mà luôn đi liền nhau, bổ sung cho nhau.

Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tâm tình đầy xúc động. Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Du đã miêu tả tâm trạng nhân vật một cách xuất sắc. Đoạn thơ cho thấy nhiều cung bậc tâm trạng của Kiều. Đó là nỗi cô đơn, buồn tủi, là tấm lòng thủy chung, nhân hậu dành cho Kim Trọng và cha mẹ.

Kết cấu của đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích rất hợp lí. Phần đầu tác giả giới thiệu cảnh Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích; phần thứ hai: trong nỗi cô đơn buồn tủi, nàng nhớ về Kim Trọng và cha mẹ; phần thứ ba: tâm trạng đau buồn của Kiều và những dự cảm về những bão tô cuộc đời sẽ giáng xuống đời Kiều.

Thiên nhiên trong sáu câu thơ đầu được miêu tả hoang vắng, bao la đến rợn ngợp. Ngồi trên lầu cao, nhìn phía trước là núi non trùng điệp, ngẩng lên phía trên là vầng trăng như sắp chạm đầu, nhìn xuống phía dưới là những đoạn cát vàng trải dài vô tận, lác đác như bụi hồng nhỏ bé như càng tô đậm thêm cuộc sống cô đơn, lẻ loi của nàng lúc này:

 

 

Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung

Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia

Có thể hình dung rất rõ một không gian mênh mông đang trải rộng ra trước mắt Kiều. Không gian ấy càng khiến Kiều xót xa, đau đớn:

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Một chữ bẽ bàng mà lột tả thật sâu sắc tâm trạng của Kiều lúc bấy giờ: vừa chán ngán, buồn tủi cho thân phận mình, vừa xấu hổ, sượng sùng trước mây sớm, đèn khuya. Và cảnh vật như cũng chia sẻ, đồng cảm với nàng: nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng. Bức tranh thiên nhiên không khách quan, mà có hồn, đó chính là bức tranh tâm cảnh của Kiều những ngày cô đơn ở lầu Ngưng Bích.

Trong tâm trạng cô đơn, buồn tủi nơi đất khách quê người, Kiều tìm về với những người thân của mình. Nỗi nhớ người yêu, nhớ cha mẹ được Nguvễn Du miêu tả rất xúc động trong những lời độc thoại nội tâm của nhân vật. Nỗi nhớ thương được chia đều: bốn câu đầu dành cho người yêu, bốn câu sau dành cho cha mẹ. Nhưng nỗi nhớ với chàng Kim được nói đến trước vì đây là nồi nhớ nồng nàn và sâu thẳm nhất. Nồi nhớ đó được xoáy sâu và đêm thề nguyền dưới ánh trăng và nỗi đau cũng trào lên từ đó:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng.

Tin sương luống những rày trông mai chờ.

Bên trời góc bể bơ vơ,

Tấm thân gột rửa bao giờ cho phai.

Lời thơ như chứa đựng nhịp thổn thức của một trái tim yêu đương đang chảy máu! Nỗi nhớ của Kiều thật tha thiết, mãnh liệt! Kiều tưởng tượng ra cảnh chàng Kim đang ngày đêm chờ mong tin mình một cách đau khổ và tuyệt vọng. Mới ngày nào nàng cùng với chàng Kim nặng lời ước hẹn trăm năm mà bỗng dưng, nay trở thành kẻ phụ bạc, lỗi hẹn với chàng. Chén rượu thề nguyền vẫn còn chưa ráo, vầng trăng vằng vặc giữa trời chứng giám lời thề nguyền vẫn còn kia, vậy mà bây giờ mỗi người mỗi ngả. Rồi bất chợt Kiều liên tưởng đên thân phận Bên trời góc bể bơ vơ của mình và tự dằn vặt: Tấm son gột rửa bao giờ cho phai. Kiều nuối tiếc mối tình đầu trong trắng của mình, nàng thấm thía tình cảnh cô đơn của mình, và cũng hơn ai hết, nàng hiểu rằng sẽ không bao giờ có thể gột rửa được tấm lòng son sắt, thủy chung của mình với chàng Kim. Và thực sự, bóng chàng Kim cũng sẽ không bao giờ phai nhạt trong tâm trí Kiều trong suốt mười lăm năm lưu lạc.

Nhớ người yêu, Kiều càng xót xa nghĩ đến cha mẹ. Mặc dầu nàng đã liều đem tấc có, quyết đền ba xuân, cứu được cha và em thoát khỏi vòng tù tội, nhưng nghĩ về cha mẹ, bao trùm trong nàng là một nỗi xót xa lo lắng. Kiều đau lòng khi nghĩ đến cảnh cha mẹ già tựa cửa trông con. Nàng lo lắng không biết khi thời tiết thay đổi ai là người chăm sóc cha mẹ. Nguyễn Du đã rất thành công khi sử dụng thành ngữ, điển cố (tựa cửa hôm mai, quạt nồng ấp lạnh, gốc tử) để thể hiện tình cảm nhớ nhung sâu nặng cũng như những băn khoăn, trăn trở của Kiều khi nghĩ đến cha mẹ, nghĩ đến bổn phận làm con của mình. Trong hoàn cảnh của Kiều, những suy nghĩ, tâm trạng đó càng chứng tỏ Kiều là một người con rất mực hiếu thảo.

Nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, nhưng rồi cuổì cùng nàng Kiều lại quay về với cảnh ngộ của mình, sống với tâm trạng và thân phận hiện tại của chính mình. Mỗi cảnh vật qua con mắt, cái nhìn của Kiều lại gợi lên trong tâm trí nàng một nét buồn. Và nàng Kiều mỗi lúc lại càng chìm sâu vào nỗi buồn của mình. Nỗi buồn sâu sắc của Kiều được ngòi bút bậc thầy Nguyễn Du mỗi lúc càng tô đậm thêm bằng cách dùng điệp ngữ liên hoàn rất độc đáo trong tám câu thơ tả cảnh ngụ tình:

 

 

Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Buồn trông nội cỏ rầu rầu,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Nguyễn Du quan niệm: Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu… Mỗi cảnh vật hiện ra qua con mắt của Kiều ở lầu Ngưng Bích đều nhuốm nỗi buồn sâu sắc. Mỗi cặp câu gợi ra một nỗi buồn. Buồn trông là buồn mà nhìn ra xa, nhưng cũng là buồn mà trông ngóng một cái gì đó mơ hồ sẽ đến làm đổi thay tình trạng hiện tại. Hình như Kiều mong cánh buồm, nhưng cánh buồm chỉ thấp thoáng,xa xa không rõ, như một ước vọng mơ hồ, mỗi lúc mỗi xa. Kiều lại trông ngọn nước mới từ cửa sông chảy ra biển, ngọn sóng xô đẩy cánh hoa phiêu bạt, không biết về đâu như thân phận của mình. Rồi màu xanh xanh bất tận của nội cỏ rầu rầu càng khiến cho nỗi buồn thêm mênh mang trong không gian; để rồi cuối cùng, nỗi buồn đó bỗng dội lên thành một nỗi kinh hoàng khi ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Đây là một hình ảnh vừa thực, vừa ảo, cảm thấy như sóng vỗ dưới chân, đầy hiểm họa, như muốn nhấn chìm Kiều xuống vực.

Tám câu thơ tuyệt bút với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình kết hợp với nghệ thuật điệp ngữ liên hoàn đầu mỗi câu lục và nghệ thuật ước lệ tượng trưng cùng với việc sử dụng nhiều từ láy tượng hình, tượng thanh (thấp thoáng, xa xa, man mác, rầu rầu, ầm ầm) đã khắc họa rõ cảm giác u uất, nặng nề, bế tắc, buồn lo về thân phận của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích.

Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh thiên nhiên đồng thời cũng là một bức tranh tâm trạng có bố cục chặt chẽ và khéo léo. Thiên nhiên ở đây liên tục thay đổi theo diễn biến tâm trạng của con người. Mỗi nét tưởng tượng của Nguyễn Du đều phản ánh một mức độ khác nhau trong sự đau đớn của Kiều. Qua đó, cho thấy Nguyễn Du đã thực sự hiểu nỗi lòng nhân vật trong cảnh đời bất hạnh để ca ngợi tấm lòng cao đẹp của nhân vật, để giúp ta hiểu thêm tâm hồn của những người phụ nữ tài sắc mà bạc mệnh.



 
1
2
Thịnh Hàm
29/07/2020 16:07:01

Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Buồn trông nội cỏ rầu rầu,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Nguyễn Du quan niệm: Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu… Mỗi cảnh vật hiện ra qua con mắt của Kiều ở lầu Ngưng Bích đều nhuốm nỗi buồn sâu sắc. Mỗi cặp câu gợi ra một nỗi buồn. Buồn trông là buồn mà nhìn ra xa, nhưng cũng là buồn mà trông ngóng một cái gì đó mơ hồ sẽ đến làm đổi thay tình trạng hiện tại. Hình như Kiều mong cánh buồm, nhưng cánh buồm chỉ thấp thoáng,xa xa không rõ, như một ước vọng mơ hồ, mỗi lúc mỗi xa. Kiều lại trông ngọn nước mới từ cửa sông chảy ra biển, ngọn sóng xô đẩy cánh hoa phiêu bạt, không biết về đâu như thân phận của mình. Rồi màu xanh xanh bất tận của nội cỏ rầu rầu càng khiến cho nỗi buồn thêm mênh mang trong không gian; để rồi cuối cùng, nỗi buồn đó bỗng dội lên thành một nỗi kinh hoàng khi ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Đây là một hình ảnh vừa thực, vừa ảo, cảm thấy như sóng vỗ dưới chân, đầy hiểm họa, như muốn nhấn chìm Kiều xuống vực.

Tám câu thơ tuyệt bút với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình kết hợp với nghệ thuật điệp ngữ liên hoàn đầu mỗi câu lục và nghệ thuật ước lệ tượng trưng cùng với việc sử dụng nhiều từ láy tượng hình, tượng thanh (thấp thoáng, xa xa, man mác, rầu rầu, ầm ầm) đã khắc họa rõ cảm giác u uất, nặng nề, bế tắc, buồn lo về thân phận của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích.

Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh thiên nhiên đồng thời cũng là một bức tranh tâm trạng có bố cục chặt chẽ và khéo léo. Thiên nhiên ở đây liên tục thay đổi theo diễn biến tâm trạng của con người. Mỗi nét tưởng tượng của Nguyễn Du đều phản ánh một mức độ khác nhau trong sự đau đớn của Kiều. Qua đó, cho thấy Nguyễn Du đã thực sự hiểu nỗi lòng nhân vật trong cảnh đời bất hạnh để ca ngợi tấm lòng cao đẹp của nhân vật, để giúp ta hiểu thêm tâm hồn của những người phụ nữ tài sắc mà bạc mệnh.

2
2
Thịnh Hàm
29/07/2020 16:09:23

Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tâm tình đầy xúc động từ nỗi buồn mênh mang vô tận đã lan toả, thấm đượm vào cảnh vật. Một mình Kiều sống trong cảnh cấm cung bơ vơ nơi quê người đất khách. Không gian vắng lặng, hoang sơ không một bóng người, chỉ có thiên nhiên làm bạn với Kiều:
 

“Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung

Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”.

Ngày nàng ngắm núi xa, cảnh núi non xa mờ gợi lên nỗi buồn, niềm thương nhớ da diết với cha mẹ, người yêu. Đêm nàng ngắm vầng trăng và cảm thấy nó rất gần như ở chung với mình. Tuy chỉ là những câu thơ tả cảnh nhưng chúng ta cũng thấy hình ảnh Kiều cô đơn. Không gian thơ càng mở rộng bốn bề bát ngát thì hình ảnh Kiều càng trở nên bé nhỏ, côi cút bơ vơ. Nàng không có ai để cùng chia sẻ nỗi lo âu sợ hãi của người thiếu nữ lần đầu tiên xa nhà. Giữa nền thiên nhiên mênh mông rộng lớn, bát ngát ấy, một nỗi niềm choáng ngợp tâm hồn nàng là nỗi bẽ bàng. Đó là nỗi chán ngán cô đơn, chán cho cảnh ngộ của mình, thân phận mình xinh đẹp là thế, tài hoa là thế mà giờ đây chỉ còn biết làm bạn với mây buổi sớm, ngọn đèn đêm khuya:

“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.”

Cảnh ở đây gắn vào tình người, làm nên bức tranh tâm tình sinh động và bức tranh này được hình thành bằng tâm cảnh của Thuý Kiều, đó là bi kịch nội tâm.

Một mình cô đơn lẻ bóng trước lầu Ngưng Bích, trong lòng Kiều trào lên nỗi nhớ những người thân yêu. Nàng hướng tình cảm của mình tới Kim Trọng. Trong kí ức của nàng kỉ niệm của đêm thề nguyện đính ước dưới trăng vẫn còn đang nóng hổi, tươi rói:

“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

Tin sương luống những rày trông mai chờ.” 

Giờ đây Kiều đang ngóng đợi hình bóng chàng Kim với nỗi sầu tư. Nguyễn Du đã miêu tả chính xác, qua từ “tưởng” đó là tưởng nhớ, tưởng tượng lại. Không những thế, sau tình cảm bồi hồi da diết nhớ đến Kim Trọng, trái tim Kiều lại thổn thức tình cảm của đứa con xa nhà nhớ về cha mẹ. Tự nguyện bán mình để lấy tiền chuộc cha, Kiều đã làm tròn chữ hiếu. Nhưng trong lòng người con gái hiếu thảo vẫn canh cánh một nỗi xót xa khi cha mẹ đã già mà không có mình bên cạnh để nâng giấc, chăm sóc. Nàng hình dung ra bóng dáng song thân đang mỏi lòng tựa cửa ngóng tin con và xót xa tự hồi giờ đây ai là người đang thay mình quạt nồng, ấp lạnh:

“Xót người tựa cửa hôm mai

Quạt nồng ấp lạnh, những ai đó giờ”

Nhìn đâu Kiều củng thấy buồn, đúng như Nguyễn Du đúc kết: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu. Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, Kiều dù đang bơ vơ nơi góc bể chân trời nhưng nàng không hề nghĩ tới mình, luôn lo lắng cho người khác. Dù trong cảnh ngộ nào Kiều cùng ngời sáng lên đức hi sinh tấm lòng vị tha, nhân hậu.

Qua ngòi bút thiên tài của Nguyễn Du, nỗi buồn của Kiều càng được tô đậm thêm qua mỗi lần điệp từ “buồn trông” được cất lên là mở ra một bức tranh thiên nhiên và bức tranh tâm trạng. Không gian bao la bát ngát nơi cửa bể vào lúc chiều tà, bóng xế để gợi lên trong lòng người nỗi nhớ thương. Nhìn cánh buồm thấp thoáng xa xa, trong lòng Kiều trào lên nỗi khát khao cùng cánh buồm về quê hương. Rồi trông cánh hoa mỏng manh trôi dạt trên dòng nước cuốn, nàng nghĩ tới thân phận lênh đênh của mình. Hình ảnh nội cỏ rầu rầu giữa một không gian chân mây, mặt đất gợi trong lòng nàng nỗi lo lắng cho một tương lai mờ mịt:

“Buồn trông cửa bề chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Buồn trông nội cỏ rầu rầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”

Âm thanh của tiếng sóng ầm ầm trong cảnh gió cuốn mặt duềnh là nỗi sợ hãi của Kiều trước bão tố cuộc đời đang chờ đón nàng phía trước. Nàng tưởng như mình đang ngồi giữa biển khơi, bốn bên sóng dữ gào thét, dội cả vào tâm hồn, vây bủa lấy nàng:

“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.”

Bức tranh thiên nhiên ấy cũng là bức tranh tâm cảnh trong tâm hồn Kiều đầy lo âu, thấp thỏm, bất an.

Nguyễn Du quả là bậc thầy trong việc miêu tả nội tâm nhân vật và sử dụng các biện pháp tu từ rất độc đáo. Đó là một bức tranh tả cảnh ngụ tình thể hiện một đặc sắc trong bút pháp nhà thơ: cảnh và tình bao giờ cũng hoà quyện với nhau. Nhưng phải chăng đặc sắc nhất vẫn là tình của nhà thơ với nhân vật của mình, đối với con người và đối với cuộc đời, nói một cách khác, đó là giá trị nhân văn của đoạn trích, bắt nguồn từ tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du.

Qua đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, hẳn người đọc sẽ có suy nghĩ về nhân vật Kiều, một cô gái chung thuỷ với người yêu, hiếu thảo với cha mẹ. Và ta càng căm giận xã hội bất công, tàn bạo đã đày đọa những con người tài hoa như nàng phải sa vào kiếp sống tủi nhục ở chốn lầu xanh.

 

1
3
Thịnh Hàm
29/07/2020 16:12:58

Người ta cho rằng Truyện Kiều không phải là một cuốn tiểu thuyết tài tử giai nhân khuôn sáo như Kim Vân Kiều truyện, mà chính là một cuốn tiểu thuyết tâm lí vĩ đại của văn học Việt Nam.Thật vậy, với ngòi bút tài hoa của mình, Nguyễn Du đã nhào nặn nên những thế giới tâm linh nhân vật cực kì sống động, đã chinh phục trái tim triệu triệu người đọc suốt gần 200 năm nay, Nói đến nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật của Nguyễn Du, người ta tất sẽ nhớ ngay tới đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích. Đây là một trích đoạn thuộc vào hàng hay nhất trong Truyện Kiều, diễn tả tâm trạng của Kiều trong những tháng ngày ở lầu Ngưng Bích của mụ Tú Bà.

Quãng thời gian Kiều ở lầu Ngưng Bích là khoảng tĩnh lặng giữa hai cơn giông tố của đời nàng. Nhưng trong tâm hồn nàng lại không tĩnh lặng, lúc nào lòng nàng cũng đang diễn ra bão tố dữ dội, ngổn ngang trăm mối tơ vò không sao nguôi ngoai được.Lầu Ngưng Bích – đúng như cái tên thơ mộng của nó – là một nơi phong cảnh tuyệt đẹp. Nếu nhìn bằng con mắt hội hoạ thì đây quả là một chốn thần tiên: Bốn bề thoáng đãng mênh mông, xa xa có núi non, có con đường đất đỏ uốn lượn, cồn cát vàng trải dưới nắng và màu xanh biếc đọng khắp nơi khi mùa xuân ngự trị. Nhất là những ngày nắng đẹp, những đêm trăng sáng thì phong cảnh càng thêm hữu tình. Thế nhưng cảnh đẹp với ai, chứ với Kều thì không. Bao cảnh đẹp của lầu Ngưng Bích đều vô nghĩa khi nó là chiếc lồng son khoá kín đời Kiều. Qua đôi mắt nặng trĩu tâm trạng buồn đau của Kiều, thiên nhiên cũng trở nên buồn thảm, đồng điệu với lòng nàng.

Bằng cái nhìn hờ hững chán chường, Kiều chỉ thấy dáng núi xa như một vết mờ tít tắp. Cái huyền diệu của đêm trăng chỉ làm nàng cảm thấy vũ trụ bao la quá mà mình sao nhỏ nhoi quá, để cho nỗi cô đơn lại tăng lên gấp bội:Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung.

Đọc câu thơ này, tôi chạnh nhớ tới buổi hẹn hò của Kim – Kiều dưới trăng đêm nào:

Góp lời phong nguyện, nặng nguyền non sông.

Khi xưa hẹn núi thề sông, có vầng trăng làm chứng, Thế mà nay, non xa trăng gần, khoảng cách vời vợi khó mà hàn gắn được, cũng như lòng Kiều đang chia đôi vì bao nỗi đau thương.

Ban đêm với trăng và núi đã buồn như vậy, ban ngày nàng cũng chẳng vui gì hơn. Những cát vàng cồn nọ, những bụi hồng dặm kia với những từ để trỏ “nọ”, “kia” gợi lên nỗi tê tái của sự sẻ chia rời rã bao trùm lên phong cảnh bốn bề bát ngát. Vũ trụ thì vô hạn, mà đời người thì hữu hạn. Trong mắt Kiều, vũ trụ chỉ toàn là bụi bặm dơ bẩn muốn nhuốm đen chút lòng trinh bạch của nàng.

Bởi cảnh như thế nên tình càng “bẽ bàng”. Bẽ bàng là buồn, là chán, là thẹn, là nỗi buồn đè nặng hết ngày này qua ngày khác; để đến nỗi Kiều chỉ biết buồn với mây sớm những lúc tan giấc mơ, trở lại với hiện thực và khóc với đèn khuya trong những đêm dài không ngủ được, bởi vậy mà:

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng

Nàng tự đối thoại với lòng mình trong cô đơn vì thương nhớ. Trước hết, nàng nhớ tới Kim Trọng:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

Tin sương luống những rày trông mai chờ.

Tại sao Nguyễn Du lại để Kiều nghĩ đến người yêu trước cha mẹ mặc dù nàng là người con chí hiếu, xem hiếu nặng hơn tình? Điều này có lẽ là vì: Công lao cha mẹ Kiều đã đền đáp một phần rồi, nhưng còn nợ tình với chàng Kim là nàng không bao giờ trả được nữa! Nhớ lại những lời đã từng thề thốt:

Dẫu thay mái tóc, dám rời lòng tơ

Đã nguyền hai chừ đồng tâm

Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai

Nàng lại càng đau đớn nghĩ đến “Thề hoa chưa ráo chén vàng” thì đã phải “Lỗi thề thôi đã phũ phàng với hoa”. Và nhất là đã phải phụ chàng để rồi thất thân với một gã con buôn đê tiện như Mã Giám Sinh thì sao khỏi xót xa, tủi hổ, sao không cảm thấy có lỗi nặng với người mình yêu?

“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng”.

 “Tưởng” là mơ tưởng, là nhớ, là thương. Bao nhiêu nỗi xót xa gửi vào chữ “tưởng” ấy. Và bây giờ, sau khi đã lỗi thề với Kim Trọng, nàng chỉ còn dám nhớ tới Kim Trọng với một chữ “người”. “Người” chứ không phải là “Kim lang”, “tình quân” hay “chàng”. Bao thiên lí cách ngăn trong chữ “người” đó. Thương người yêu đã vậy, nàng lại thương mình:

Bên trời góc bể bơ vơ,

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.

Với cha mẹ, mặc dầu đã bán mình chuộc cha, nàng vẫn chưa xem đó là đã làm tròn đạo con:

Xót người tựa cửa hôm mai

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ.

Sân Lai cách mấy năng mưa,

Có khi gốc Tử đã vừa người ôm.

Chính trong hoàn cảnh lưu lạc quê người của nàng ta mới thấy hết tấm lòng chí hiếu của người con gái ấy. Nàng biết sẽ còn bao cơn “cát dập sóng vùi” nhưng vẫn chỉ canh cánh lo cho cha mẹ thiếu người đỡ đần phụng dưỡng vì hai em còn “sân hoè đôi chút thơ ngây”. Bốn câu mà đóng tới bốn điển tích “người tựa cửa”, “quạt nồng ấp lạnh”, “sân Lai”, “gốc Tử”, Nguyễn Du đã làm cho nỗi nhớ của Kiểu đậm phần trang trọng thiết tha và có chiều sâu nhưng cúng không kém phần chân thực. Tình đã là nửa mảnh lòng của Kiều, mà cảnh cũng là nửa mảnh lòng nữa. Nhìn vào đâu nàng cũng thấy nỗi buồn phủ dâng. Giữa cái mênh mông của biển trời hoàng hôn, nàng chỉ còn đủ sức để thấy một cánh buồm lẻ loi:

Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Như một con người bất hạnh đạt vào cô đảo, nàng cứ mỏi mòn chờ một con thuyền đến cứu vớt, mà thuyền chỉ thấp thoáng xa xa trên biển rồi mất hút ở đường chân trời chứ không bao giờ cập bến. Thà rằng không nhìn thấy gì còn hơn loé lên tia hi vọng rồi vụt tắt, thì sự dày vò của nỗi thất vọng thật khủng khiếp. Càng chờ càng lún sâu vào tuyệt vọng, lòng Kiều cứ dần dần chán chường nhàu nát theo ước mơ lụi tàn. Đổ rồi nàng chợt rùng mình:

Buồn trông ngọn nước mới sa,

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Dòng đời như dòng nước cuốn xiết mà thân con gái như “hoa đã lìa cành” bị va đập vào bao con sóng cho đến tả tơi, rồi theo nước trôi đi vô định. Tim người đọc như nhói lên trước câu hỏi đau đáu của Kiều “ biết là về đâu”. Nước mênh mang buồn, cỏ cây cũng dầu dầu thảm:

Buồn trông nội cỏ rầu rầu,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

vẫn sắc xanh một màu trải tới chân trời nhưng bất động, ủ rũ chứ không rợn lốn như sóng chạy toả đến tận chân trời trong tiết thanh minh nữa. Giữa cảnh chết lặng của trời đất thì vẫn có một âm thanh gầm gào quanh đây. Nhưng đó tiếng của sóng ngoài kia hay tiếng gầm gào của nỗi sự dâng lên trong lòng nàng: Con sóng gầm của định mệnh lại sắp ập xuống thân phận lạc loài, mà cuộc đời là “một cung gió thảm mưa sầu”.

Tám câu thơ chia làm bốn cặp, mỗi cặp diễn tả một nỗi buồn khác nhau, lặp đi lặp lại một kiểu cấu trúc cảnh – tình song song, với điệp ngữ “buồn trông” đằng đẵng như tiếng thở dài, cùng nhịp thơ chậm, gợi buồn rười rượi bởi thanh bằng chiếm ưu thế. Nghệ thuật của đoạn thơ đã thực sự đóng một vai trò quan trọng góp phần làm nổi bật lên bức tranh tâm trạng của Kiều. Quả như Nguyễn Du đã viết:

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?.

Hiện thực khách quan luôn uốn lượn theo tình điệu, cảm xúc chú quan của con người, đồng điệu với tình người, nên qua đôi mắt tâm hồn tan nát của Kiều, cảnh vật tươi đẹp ở lầu Ngưng Bích nhuộm đẫm màu thảm sầu và không khí u uất. Ngược lại với cái tên “Ngưng Bích (xanh biếc), đọc xong đoạn thợ, tôi chỉ thấy toàn một màu xám đen phủ khắp chân mây mặt biển trước lầu.

Đào Nguyên Phổ từng khen Truyện Kiều: “Nói tình thì vẽ được hình trạng hợp, li, cam, khổ, mà tình không rời cảnh. Tả cảnh thi bày hết thi vị tuyết, nguyệt, phong, hoa mà cảnh tự vướng tình, mực muốn múa mà bút muốn bay”, quả nhiên không sai. “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một đoạn trích mượn cảnh ngụ tình hay vào bậc nhất của Truyện Kiều cũng như của văn học trung đại Việt Nam, chứng tỏ được “Tay tiên gió táp mưa sa” của cụ Nguyễn Tiên Điền. Truyện Kiều có tới hơn 3000 câu, mà “Kiều ở lầu Ngưng Bích” chỉ có 22 câu – chiếm một phần rất nhỏ trong tác phẩm lừng danh ấy. Nhưng đằng sau 22 câu thơ ít ỏi đó không chỉ có một tài năng lớn mà trước hết là một trái tim lớn của nhà thơ dành cho nhân vật; cho con người và cuộc đời. Chính trái tim ấy đã hoà tan máu mình cho 3254 câu Kiều để rồi “khiến người cười, khiến người khóc, khiến người vui, khiến người buồn, khiến người giở đi giở lại ngàn lần, càng đọc thuộc lại càng không biết chán” (Đào Nguyễn Phổ – tựa Loạn trường tân thanh). Và để mãi mãi người đọc còn khóc thương cho tấm lòng trinh bạch và tâm sự đau đớn của nàng Kiều.

2
2
Thịnh Hàm
29/07/2020 16:14:42

Sau khi bán mình chuộc cha và em, Thúy Kiều đã bị tên bán tớ mua nguyệt Mã Giám Sinh câu kết với Tú Bà đẩy Thuý Kiều vào lầu xanh. Kiều bị cấm cung ở lầu Ngưng Bích nhưng thực chất đó là một sự giam lỏng. Sau lưng nàng là biết bao song gió, đoạn trường. Tại lầu Ngưng Bích, Kiều nhớ người yêu, nhớ mẹ cha và xót xa cho bản thân mình.

Cảnh lầu Ngưng Bích hiện ra trước mắt Thúy Kiều với sự mênh mông, trơ trọi:

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung

Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.

Không gian rộng lớn “non xa trăng gần”  “bát ngát” ấy có sự cô đơn, lẻ loi của con người. Từ “xa trông” biểu lộ rất rõ tâm trạng thẫn thờ, đón đợi từ cảnh vật thiên nhiên, mong muốn phá tan sự đơn độc của con người với cảnh vật, nhưng càng đón đợi, ngóng trông, cảnh vật càng trở nên vắng lặng.

Trăng gần vì sáng nhưng ánh trăng nhỏ quá, núi rộng và to nhưng xa vì trong đêm trăng non mờ quá. Cả “cát vàng cồn nọ” cũng xa con người. Thúy Kiều trở nên cô đơn trước không gian vũ trụ bao la ấy. Và cảm nhận “ Khóa xuân” là cảm nhận rất thực tế. Kiều thấy mình như không còn tuổi trẻ, đoạn tuyệt với tuổi trẻ khi đã rơi vào chốn lầu xanh.

Cảnh mở đầu bát ngát, mênh mông, làm con người cô đơn trong cảnh ấy, cũng là cảnh mở ra những tâm trạng của nàng Kiều:

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng

Từ láy “bẽ bàng” cho thấy sự hổ thẹn của Kiều, nàng đang tự vấn bản thân, nỗi chán nản hòa với buồn tủi đang tràn ngập trong tâm trạng Kiều. Cảnh rộng lơn, tình cô đơn,  con người không có nơi neo đậu.  Kim Trọng là người Thúy Kiều nhớ đến đầu tiên trong cảnh ấy:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

Tin sương luống những dày trông mai chờ

Chân trời góc bể bơ vơ

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.

Lời thơ là lời thổn thức của một trái tim từng tha thiết mặn nồng với tình yêu đầu nhưng dường như thổn thức lắm. Nàng nhớ lại cảnh thề nguyền cùng Kim Trọng, lại tưởng tượng ra cảnh Kim Trọng đang mòn mỏi, ngóng trông tin tức của nàng một cách vô vọng. Bởi vậy nàng xót xa, thấu hiểu tấm lòng chàng Kim nhưng lại thấm thía cảnh bơ vơ, trơ trọi của mình. Nàng hiểu rõ tấm lòng son sắt, thuỷ chung của mình với Kim Trọng nhưng nàng cũng hiểu rõ sự trong trắng sẽ không bao giờ “gột rửa” được. Những câu thơ lảy lên nỗi nhớ nhung tha thiết, đồng cảm và tự trách bản thân của Kiều.

Sau nỗi nhớ người yêu nàng nhớ cha mẹ:

Xót người tựa cửa hôm mai

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?

Sân Lai cách mấy nắng mưa

Có khi gốc tử đã vừa người ôm.

Vì thương nhớ cha mẹ nên hình ảnh cha mẹ sớm hôm tựa cửa đón đợi người con hiếu thảo cứ lẩn quất quanh Kiều, nàng xót xa vì điều đó, càng xót xa hơn khi nghĩ cha mẹ đã già yếu “có khi gốc tử đã vừa người ôm” giờ đây ai sẽ là người thay mình chăm sóc cha mẹ “Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ”. Đoạn thơ có sử dụng điển tích, điển cố, cùng câu hỏi tu từ cho thấy rõ nỗi nhớ cha mẹ tha thiết trong xót xa không kém nỗi nhớ người yêu. Đó là nỗi nhớ của người con hiếu thuận với cha mẹ.

Kiều nhớ tới chàng Kim trước sau đó nhớ đến cha mẹ. Đó cũng là sự cảm thông hết sức lạ lùng của đại thi hào Nguyễn Du. Tác giả là người hiểu sâu sắc nhất những tâm trạng mà Thúy Kiều đang trải qua. Người con gái có trái tim yêu thương mặn nồng ấy từng “cậy em, em có chịu lời”, từng mong muốn sự đáp đền tình cảm riêng tư của mình với người yêu nhờ vào sự giúp đỡ của em gái thì khi đã lỗi với lời hẹn ước trước kia, trái tim nàng mới đớn đau tột độ. Tâm trạng phụ bạc lấn án nàng cả mười lăm năm lưu lạc. Bởi vậy nhớ người yêu trước là nỗi nhớ được cất lên từ chính sự thấu hiểu của đại thi hào có con mắt thấu suốt ngàn đời.

Nhớ người yêu, nhớ cha mẹ nhưng cuối cùng nàng vẫn quay lại với cảnh ngộ của mình. Sống với tâm trạng và hoàn cảnh hiện tại. Tám câu thơ cuối là bức tranh cảnh vật được khắc họa thông qua điệp từ “buồn trông”. Mỗi cảnh vật qua con mắt, cái nhìn của Kiều đều mang theo những tâm trạng, sự khắc khoải riêng. Nàng mỗi lúc lại chìm sâu trong nỗi buồn của mình. Điệp từ “buồn trông” vang lên dồn dập đẩy nàng Kiều vào tâm thế của con người cô đơn đến bơ vơ, bất định:

Buồn trông của bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa

…………………………………………
Ầm ầm tiếng song kêu quanh ghế ngồi

Những câu thơ miêu tả tâm trạng bất ổn, buồn chán,,lo lắng thoát ra từ thiên nhiên ấy được kết thúc bằng tiếng “ầm ầm” của sóng  như báo trước cơn tai biến sẽ đổ sập xuống đầu Kiều.

Với quan niệm thẩm mĩ truyền thống, lấy cảnh vật làm nền cho con người, Nguyễn Du mở đầu  đoạn trích  bằng không gian rộng lớn nhưng cô đơn. Kết thúc bằng nỗi cô đơn vô vọng đã đẩy lên cao độ trong không gian của sự vắng lặng không một bóng người. Tất cả đẩy Kiều đến nhưng lối rẽ không rõ ràng của vận mệnh.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư