viết thành bài văn thì
Việt Nam là một dân tộc có truyền thống yêu nước lâu đời. Từ thuở vua Hùng dựng nước, dân tộc ta đã liên tục phải đối mặt với sự xâm lăng của quân thù. Nhưng dù trải qua bao biến cố, thăng trầm của lịch sử thì con người Việt Nam luôn sát cánh bên nhau anh dũng chiến đấu, quét sạch kẻ thù ra khỏi bờ cõi.Viết về tinh thần, sức mạnh của dân tộc cùng sự tự hào về dân tộc anh hùng đã có rất nhiều tác phẩm văn học được ra đời. Nổi bật lên trong số đó có bài thơ “ Sông núi nước Nam” của Lí Thường Kiệt và “Tụng giá hoàn kinh sư” của tướng Trần Quang Khải.
Hai bài thơ này tuy có những nội dung biểu hiện, bút pháp biểu hiện hoàn toàn khác nhau song giữa chúng lại có những nét tương đồng, những nét gặp gỡ vô cùng độc đáo. Đó chính là sự tự hào về dân tộc, lòng tin mạnh mẽ vào vận mệnh, tương lai của dân tộc.Bài thơ “ sông núi nước Nam” được coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc viết bằng thơ. Bài thơ đã khẳng định được nền độc lập, chủ quyền của dân tộc Việt Nam:
“ Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận ở sách trời”
Ở trong bài thơ này, Lí Thường Kiệt đã vạch rõ ranh giới lãnh thổ, chủ quyền của dân tộc Việt Nam .Vì vậy, Việt Nam là một quốc gia hoàn toàn độc lập, có chủ quyền riêng, lãnh thổ riêng. Sự phân chia này đã được “ định phận ở sách trời”.
Lí Thường Kiệt đã đưa ra được những lập luận vô cùng sắc bén, nhà thơ đã khẳng định lãnh thổ, chủ quyền là do “sách trời” quy định, vì vậy mà không một thế lực nào có thể vi phạm, xâm lấn. Nếu cố tình xâm lược là đã đi lại với lẽ trời, và do đó ắt sẽ bị trừng phạt thích đáng.
“Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh cho tơi bời”
Sau những lập luận sắc sảo, chặt chẽ khi khẳng định chủ quyền, lãnh thổ dân tộc thì đến hai câu thơ sau, Lí Thường Kiệt đã đanh thép tuyên bố hậu quả của lũ cướp nước khi cố tình “xâm phạm” đó là “bị đánh cho tơi bời”.
“Sông núi nước Nam” đã thể hiện được tinh thần tự chủ của một quốc gia có nền độc lập, lãnh thổ riêng và cũng thể hiện sự quyết tâm, đấu tranh đến cùng của dân tộc này để bảo vệ nền độc lập, tự chủ ấy.
“ Tụng giá hoàn kinh sư” của Trần Quang Khải lại thể hiện được hào khi chiến thắng và khát vọng thái bình thịnh trị của dân tộc.
Mở đầu bài thơ tác giả đã thể hiện niềm tự hào đối với những chiến thắng vẻ vang của dân tộc:
“Đoạt sáo Chương Dương độ
Cầm Hồ Hàm Tử quan”
(Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm tử bắt quân thù)
Thời nhà Trần làm nên lịch sử với chiến thắng vẻ vang khi ba lần đại thắng quân Nguyên Mông, và chiến thắng điển hình nhất có thể kể đến chiến thắng trên sông Bạch Đằng. Tuy nhiên, ở đây Trần Quang Khải không nhắc đến chiến thắng này mà lại nhắc đến “Chương Dương” và “Hàm Tử”. Đây là hai chiến thắng cuối cùng, có ý nghĩa quyết định chiến thắng về quân ta.Nhà thơ đã thể hiện niềm tự hào với chiến thắng vẻ vang, lẫy lừng ấy của dân tộc. “Cướp giáo giặc”, “ bắt quân thù” là những hình ảnh minh chứng cho sự lẫy lừng, cho sức mạnh của dân tộc anh dũng.
Sau khi thể hiện niềm tự hào về những chiến công oanh liệt, Trần Quang Khải đã thể hiện ,một niềm tin bất diệt vào vận mệnh của dân tộc trong tương lai:
“ Thái bình tu trí lực
Vạn cố thử giang san”
(Thái bình nên gắng sức
Non nước ấy ngàn thu)
Giành được những chiến thắng vẻ vang nhưng tác giả vẫn đề cao sự cảnh giác cùng sự cố gắng để nền hòa bình sẽ trường tồn “non nước ấy ngàn thu”.
Câu thơ vừa mang ý nhắc nhở ý thức gìn giữ hòa bình, vừa thể hiện được niềm tin mãnh liệt vào vận mệnh của đất nước “nghìn thu”.
“Tụng giá hoàn kinh sư” là bài thơ thể hiện được niềm tự hào về truyền thống anh dũng, niềm tin vào vận nước.
Như vậy, ta có thể dễ dàng bắt gặp điểm tương đồng giữa hai bài thơ. Đó là lời của những vị tướng có tình yêu nước tha thiết, cùng có chung niềm tự hào về dân tộc, giống nòi. Và đều có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh, vào sự trường tồn của mệnh nước. Cả hai đều là những áng thơ văn tiêu biểu cho tinh thần yêu nước, mang đậm hào khí Đông A.