Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Nghị luận văn học Thiên nhiên Tây Bắc hoang sơ, dữ dội nhưng cũng thật thơ mộng, mĩ lệ. Hãy làm rõ điềuđó qua bài thơ Tây Tiến - Quang Dũng

Nghị luận văn học
Thiên nhiên Tây Bắc hoang sơ, dữ dội nhưng cũng thật thơ mộng, mĩ lệ. Hãy làm rõ điều
đó qua bài thơ Tây Tiến - Quang Dũng

4 Xem trả lời
Hỏi chi tiết
646
2
0
Tran Huu Hai Hai
01/08/2020 19:43:46
+5đ tặng

“Đường lên Tây Bắc vút xa mờ. Đường lên Tây Bắc mây trắng bồng bềnh như mơ... Gặp lại dấu chân cha ông, gặp lại chín năm gian khổ”. Những giai điệu trong bài hát Hành quân lên Tây Bắc của nhạc sĩ Nguyễn An Thuyên đã hơn một lần đưa ta ngược về thời gian, vượt qua khoảng cách không gian về với núi rừng Tây Bắc của một thời đạn lửa. Giữa rất nhiều tác phẩm văn chương nói chung và văn học thời kì kháng chiến chống Pháp nói riêng in đậm dấu ấn vùng cao Tây Bắc, Tây Tiến của Quang Dũng là bài thơ có vị trí đặc biệt. Đọc Tây Tiến người ta không chỉ thấy hiện lên sừng sững bức tượng đài người lính mà còn ấn tượng sâu sắc về bức tranh thiên nhiên miền Tây Bắc hùng vĩ, hoang sơ nhưng không kém phần thơ mộng, lãng mạn.

Tây Tiến (1948) là nét son đẹp nhất trong đời thơ Quang Dũng. Bài thơ hiện ra như một sự hoà điệu đẹp đẽ giữa thơ - nhạc - hoạ.

Cả Tây Tiến là một nỗi nhớ khôn nguôi của nhà thơ về một vùng đất một thời trận mạc. Vậy nên, khi nhắc đến địa danh này, ta nhận thấy những kí ức của quá khứ hiện về thật tươi nguyên, nó chen lấn thực tại, tạo nên độ nhoè giữa hai không gian: không gian hiện tại và không gian hồi tưởng. Bởi thế, dù lạ lẫm, qua hồn thơ và nỗi nhớ Quang Dũng, các địa danh ấy xâm chiếm cõi nhở người đọc, giúp họ yên tâm cùng "Quang Dũng -trôi’ về một vùng đất đẹp đẽ, dữ dội và mộng mơ, đằm thắm.

Bao trùm nền cảnh Tây Bắc là vẻ hùng vĩ dữ dội, hiểm trở. Hình ảnh đoàn quân Tây Tiến như mờ ảo, ẩn hiện trong sương khói. Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi. Những bản mường xa lạ được nhắc đến với bao kỉ niệm yêu thương.

Quang Dũng là một trong những nhà thơ đã dùng thơ để gợi nhớ trong hồn người những địa danh, những tên làng, tên bản, tên núi, tên sông của

quê hương đất nước vối bao ý vị đậm đà. Ông không trao nỗi nhớ của mình những địa chỉ “vu vơ”, ông điểm danh từng tên cụ thể: sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch... và sự mặt của các địa danh này lập tức gợi ra ý niệm về sự cách trở, hoang sơ. Những địa danh đã gắn bó vơi đầy với tác giả và đi sâu vào tâm thức nhà thơ. Đoàn quân Tây Tiến hành quân trong biển sương mù dày đặc, trong màn đêm hơi núi, gió rét căm căm của chốn “thâm sơn cùng cốc”. Sương lấp đường đi, lấp dáng người trong mờ mịt. Những nẻo đường hành quân chiến đấu như kéo dài vô tận:

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Ba câu thơ là một minh chứng tiêu biểu cho quan niệm “thi trung hữu hoạ”, bởi những hình ảnh trong bức tranh thơ này được vẽ lên bằng những đường nét có sức khái quát lớn và mang tính đặc trưng cao. Nó đã gây được ấn tượng mạnh mẽ và gợi ra trong tâm trí người đọc vẻ đẹp trùng điệp, hoang vu, hiểm trở của núi rừng Tây Bắc. Cao hơn những màn sương che lấp bóng dáng đoàn quân đang vượt dốc, vây bọc lấy những bản làng trong hơi lạnh là những đỉnh núi gập ghềnh, hiểm trở cao ngàn thước có mây phủ kín bốn mùa. Lên tới đỉnh, đầu người lính và mũi súng tưởng như chạm vào trời cao: “súng ngửi trời’

Dưới chân họ lại là những vực sâu thăm thẳm ngàn thước. Câu thơ như được ngắt làm đôi, vẽ ra hai chặng của con đường hành quân, diễn tả rất đạt sự chênh vênh, cheo leo của đèo và dốc giữa lưng chừng núi. Với câu thơ có nhịp điệu bẻ đôi đột ngột trong sự đối lập tương phản, người đọc có thể hình dung dốc lên cao rồi đổ xuống gần như thẳng đứng. Nhìn lên cao thì hun hút không cùng, nhìn xuống thì sâu thăm thẳm đến chóng mặt. Những hình ảnh thơ giàu chất nhạc, chất hoạ đã gợi tả một Tây Bắc

hùng vĩ dữ dội hiểm trở để gợi nhớ một thời Tây Tiến đầy gian khổ, gian khổ đến nỗi:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!”.

Gian khổ tưởng như đã vượt lên trên giới hạn chịu đựng của con người. Những tên địa danh không gần gũi dân dã như thôn Đoài thôn Đông trong thơ Nguyễn Bính mà vô cùng xa lạ với người đọc nhưng chính những địa danh ấy đã liên tiếp vẽ lên con đường Tây Tiến một thời như khắc như tạc vào tâm trí người đọc núi non gập ghềnh hiểm trở miền Tây Bắc.

Miền Tây còn là nơi ngự trị của vẻ âm u, hoang dã, là nơi đầy những thử thách ghê gớm đặt ra cho con người. Nó không chỉ được mở ra theo chiều không gian với mà còn được khám phá ở chiều thời gian với những đe dọa khủng khiếp luôn luôn rình rập;

Chiều chiều oai linh thác gầm thét 
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

“Chiều chiều” và “đêm đêm” - những khoảng thời gian gợi nỗi buồn trong lòng người thì chỉ nghe thấy tiếng cọp trêu người và tiếng thác sông Mã gầm thét. Điều đó càng gợi sự hoang sơ âm u của núi rừng Tây Bắc. Nghệ thuật phối thanh trắc: “Mường Hịch - cọp trêu người” hai dấu nặng liền kề gợi cái nặng nề như bước chân thú dữ đang rình rập đe dọa con người. Rừng già miền Tây Bắc hoang sơ âm u bí ẩn luôn là thử thách với người chiến sĩ trên con đường hành quân.

Vượt qua vẻ hùng vĩ dữ dội, vượt lên trên sự hoang sơ khắc nghiệt của rừng núi Tây Bắc, người đại đội trưởng binh đoàn Tây Tiến khi xưa nhớ về chốn cũ còn ghi tạc trong mình về một miền Tây thơ mộng và lãng mạn:

Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Hình ảnh nhân hoá “hoa về” gợi nhiều liên tưởng: có thể là hoa nở trong đêm sương, có thể “hoa” là ngọn đuốc trong đêm hành quân, cũng cỏ thê hiêu là bóng dáng người đẹp... “Đêm hơi” tái hiện không gian núi rừng huyền ảo thơ mộng trong màn sương mỏng manh bồng bềnh. Câu thơ phối nhiều thanh bằng gợi cảm giác như sương như hương, như hoa, như hôn người. Hình ảnh hoa về là hình ảnh đa nghĩa, là điểm sáng làm rõ vẻ đẹp tâm hồn người lính, xua đi những mệt mỏi trên con đường hành quân.

Giữa mạch thơ khắc hoạ tập trung cái dữ dội tột đỉnh của thiên nhiên miền Tây, Quang Dũng đã thả một câu thơ toàn thanh bằng với nhạc điệu lâng lâng, mênh mang thể hiện ánh mắt nhìn vô cùng bay bổng của người lính Tây Tiến:

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

“Mưa xa khơi” là hình ảnh tả thực những cơn mưa xối xả nơi núi rừng Tây Bắc bằng cách lấy mưa biển tả mưa rừng. Câu thơ còn như tiếng thở phào nhẹ nhõm của người lính sau khi vượt qua bao đèo cao suối sâu, tạm dừng chân bên một dốc núi, phóng tầm mắt ra xa, qua một không gian mù mịt sương rừng mưa núi thấy thấp thoáng những ngôi nhà như những cánh buồm bồng bềnh trên biển khơi, trong một “đêm hơi” mơ hồ huyền ảo... gợi một niềm đầm ấm thân mật trong lòng người. Câu thơ như một gam màu lạnh giữa những gam màu nóng làm dịu lại cả đoạn thơ.

Những địa danh “Mường Lát”, “Pha Luông” đọc lên nghe êm dịu phù hợp với nét thơ mộng của cảnh không gian được mỏ rộng ra bát ngát vừa cao rộng vừa xa vừa mờ như một bức tranh thuỷ mặc. Thiên nhiên Tây Bắc là vậy, hùng vĩ hiểm trở nhưng cũng rất đỗi trữ tình lãng mạn, để lại dấu ấn khó phai trong ký ức người lính Tây Tiến.

Bốn câu sau của đoạn thơ thứ hai về bức tranh sông nước miền Tây là nét vẽ hoàn chỉnh về thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ và thơ mộng:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Cảnh vật Tây Bắc trong bốn câu thơ này cũng vẫn được dệt nên bằng cảm xúc hồi tưởng, là sự tiếp nối của cái nỗi “nhớ chơi vơi" ở phần đầu bài thơ, là sự tiếp theo của nỗi nhớ “hội đuốc hoa” ở bốn câu trước, cảnh Tây Bắc ở đây là một buổi chiều Châu Mộc được giăng mắc bởi một màn sương mờ, có dòng sông đôi bờ lặng lẽ, hoang dã như đôi bờ tiền sử, như một miền cổ tích. Một lần nữa, hình ảnh sương khói lại xuất hiện trở thành không gian đặc trưng về Tây Tiến trong nỗi nhớ, trở thành thời gian của hoài niệm đẹp đẽ, mờ ảo của sương khói miền Tây Bắc. Cũng giống như Chế Lan Viên khi nhớ về Tây Bắc:

Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương

Người và cảnh hòa quyện với nhau tạo nên một vẻ đẹp vừa có hồn vừa man mác, xa xăm. Bởi nhớ cảnh núi rừng miền Tây trong buổi chiều sương nhưng là nhớ tới hồn lau. Hình ảnh hồn lau đầy thơ mộng là một nét đẹp của chiều sương Châu Mộc. Mùa xuân hoa lau nở tím rừng, sang thu hoa lau nở trắng rừng. Hoa lau, cờ lau phất phơ, lá lau kêu xào xạc trong gió thu. Câu thơ “Cỏ thấy hồn lau nẻo bến bờ” đúng là câu thơ mang đậm chất tâm hồn thi nhân” (GS. Phan Cự Đệ). Rồi, trên cái nền của dòng sông đậm sắc màu cổ tích và huyền thoại ấy, nổi bật lên hình dáng thướt tha, uyển chuyển của cô gái vùng cao trên chiếc thuyền “độc mộc” cùng cái tình tứ “đong đưa” làm duyên của những bông hoa bên dòng nước lũ.

Những câu thơ chỉ gợi không tả cũng đủ sức vẽ lên một bức tranh Tây Tiến sống động huyền ảo. Cả núi rừng khi thì thấp thoáng trong màn sương lạnh, khi thì ẩn hiện trong cơn mưa xa khơi, lúc lại chìm trong màn sương như thực như mộng. Những nét chấm phá rất mảnh rất nhẹ nhưng sống động cho thấy vẻ đẹp tâm hồn tinh tế nhạy cảm của người lính bất chấp hiện thực khốc liệt của chiến tranh, người lính Tây Tiến vẫn mở lòng cảm nhận nâng niu những nét đẹp riêng của núi rừng. Đằng sau những câu thơ giàu chất nhạc, chất họa là tấm lòng Quang Dũng gắn bó yêu thương tha thiết với cuộc sống con người miền Tây.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
vân thanh
05/08/2020 10:06:38
+4đ tặng
 Thiên nhiên núi rừng Tây Bắc thơ mộng trữ tình là thế nhưng ẩn sau đó là vẻ hoang sơ với đầy những hiểm nguy đang rình rập. Trước cảnh hùng vĩ của non nước, hình tượng người lính Tây Tiến của Quang Dũng hiện lên như một tượng đài bất diệt, mang vẻ đẹp vừa hùng tráng vừa tài hoa lãng tử của những người con Hà thành. Bài thơ Tây Tiến đã tái hiện chân thực lại sự tàn khốc của chiến tranh, những gian lao vất vả mà người lính phải trải qua trên chặng đường kháng chiến. Thế nhưng chưa bao giờ họ lùi bước trước khó khăn thử thách, những người lính vĩ đại ấy vẫn sống lạc quan yêu đời và chiến đấu anh dũng kiên cường.
 Quang Dũng (1921 – 1988) tên thật là Bùi Đình Diệm, quê gốc ở Hà Tây (nay là Hà Nội). Ông là người nghệ sĩ đa tài vừa viết văn, làm thơ lại biết cả vẽ tranh, soạn nhạc. Thế nhưng nhắc đến Quang Dũng trước hết phải một nhà thơ tài hoa, giọng thơ ông vừa hồn nhiên, tinh tế lại không kém phần lãng mạn hào hoa, đặc biệt là khi ông viết về người lính Sơn Tây của mình. Những sáng tác chính của ông gồm có: Mây đầu ô (1986), Thơ văn Quang Dũng (1988). Năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác, tại Phù Lưu Chanh ông đã viết nên bài thơ Nhớ Tây Tiến sau đổi tên thành Tây Tiến và được in trong tập thơ Mây đầu ô.
 Mở đầu bài thơ tác giả đã tái hiện lại khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ mà mĩ lệ cùng với cuộc hành quân gian khổ của binh đoàn Tây Tiến. Những người lính trẻ chẳng ngại hiểm nguy họ cứ tiến về phía trước với tinh thần hồn nhiên, lạc quan của tuổi trẻ :
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! 
 Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi 
 Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi 
 Mường Lát hoa về trong đêm hơi 
 Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm 
 Heo hút cồn mây, súng ngửi trời 
 Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống 
 Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi 
 Anh bạn dãi dầu không bước nữa 
 Gục lên súng mũ bỏ quên đời! 
 Chiều chiều oai linh thác gầm thét 
 Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
 Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói 
 Mai Châu mùa em thơm nếp xôi ”
 Cảm xúc chủ đạo xuyên suốt tác phẩm đó là nỗi nhớ da diết của tác giả khi nghĩ về những kỷ niệm xưa, tại đơn vị cũ của mình. “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi” câu thơ cất lên như tiếng lòng nhà thơ, tiếng gọi tha thiết đầy tiếc nuối và chứa đựng đầy những hoài niệm trong quá khứ huy hoàng. Nhà thơ nhớ Tây Tiến bằng nỗi nhớ “chơi vơi” thật da diết, mênh mông và sâu nặng. Nỗi nhớ luôn thường trực, bao trùm lên cả không gian và trái tim người lính.
 Bức tranh thiên nhiên hiện lên thật sống động với những địa danh “sông Mã”, “Sài Khao”,“Mường Lát”, “Pha Luông”, “Mường Hịch”, “ Mai Châu” đây là những địa danh gắn bó với binh đoàn, là địa bàn hành quân của những người lính Tây Tiến. Một vùng đất xa xôi, hiểm trở nhiều lần tưởng chừng như làm lu mờ ý chí chiến đấu của người lính cụ Hồ, “sương lấp đoàn quân mỏi” địa hình núi cao cùng với những lớp sương dày đặc phủ kín lối đi, đoàn quân đang mệt mỏi giờ đây lại phải đối diện với cái lạnh cắt da của Tây Bắc. Địa hình núi non hiểm trở “dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm” đoạn đường đi cũng chẳng bằng phẳng dễ dàng, có đoạn lên cao gập ghềnh khúc khuỷu, có khi lại “thăm thẳm” như vực sâu chỉ cần một phút lơ đãng người lính có thể bỏ mạng ngay tức khắc. Sương dày che lấp tầm nhìn, đường đi nhỏ quanh co lại thêm sự trơn trượt của mặt đất, đoàn quân vẫn đi trong gian khổ từng hạt mưa phùn rơi xuống phảng phất cái lạnh buốt. Quang Dũng vận dụng nghệ thuật đối lập một cách tài tình để miêu tả sự dữ dội của núi rừng Tây Bắc “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” những câu thơ sinh động đầy sáng tạo gợi ra trước mắt người đọc khung cảnh cảnh thiên nhiên hùng vĩ, hoang vắng, bí hiểm với đầy rẫy những hiểm nguy “oai linh thác gầm thét”,  đêm đêm “cọp trêu người”.
 Quả là một nơi “rừng thiêng nước độc” thế nhưng những khó khăn ấy cũng chẳng thể nào cản bước chân người lính, họ vẫn đi với sự anh dũng kiên cường và trong đôi mắt người lính thì miền Tây Bắc lại là một vùng đất thơ mộng trữ tình và chứa chan tình người. Những hình ảnh “hoa về trong đêm hơi”, “mưa xa khơi” thật huyền ảo tạo xúc cảm thư thái, nhẹ nhàng cho người đọc. Người dân miền Tây hiện lên thật giản dị, nghĩa tình, họ gắn bó với cách mạng, yêu thương che chở cho những người lính Tây Tiến.
 Quang Dũng miêu tả thiên nhiên núi rừng rộng lớn mênh mông, hiểm trở như thế chính là để làm nổi bật lên hình tượng người lính trên chặng đường hành quân gian khổ, hy sinh của họ. Đoàn quân đã đi ròng rã nhiều ngày liền họ thật sự đã kiệt sức, lúc này đây “đoàn quân mỏi” cần được nghỉ ngơi để lấy lại sức lực, tinh thần bước tiếp. Hình ảnh “anh bạn dãi dầu không bước nữa” là cách nói giảm, nói tránh của Quang Dũng, có những người lính đã hy sinh nơi chiến trường chẳng thể nào bước tiếp cùng với đồng đội. Tác giả nhắc đến cái chết một cách gián tiếp để tránh gây nỗi đau quá sâu sắc, làm giảm di ý chí chiến đấu của đoàn quân. Những người lính thật đáng khâm phục họ sẵn sàng hy sinh quên mình cho Tổ quốc, họ trẻ trung ngang tàn và rất yêu đời “gục lên súng mũ bỏ quên đời”. Cái chết nhẹ tựa lông hồng chẳng thể làm người lính run sợ, tâm hồn họ vẫn bay bổng tinh nghịch xen lẫn sự lãng mạn tài hoa.
 Những khổ thơ tiếp theo tác giả gợi nhớ về những kỷ niệm đẹp, sâu nặng của tình quân và dân trong những đêm liên hoan tưng bừng náo nhiệt:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa 
Kìa em xiêm áo tự bao giờ 
Khèn lên man điệu nàng e ấp 
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ 
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy 
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ 
Có nhớ dáng người trên độc mộc 
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” 
 Binh đoàn Tây Tiến gắn bó với chiến trường suốt nhiều năm trời, có biết bao kỷ niệm hằn sâu trong tâm hồn mỗi con người. Sau những ngày chiến đấu vất vả, gian lao “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa” những chàng trai cô gái nắm tay nhảy điệu nhạc “e ấp” của dân tộc thiểu số vùng cao. Vẻ đẹp của con người nơi đây thật lung linh, bí ẩn có chút hoang dại làm say đắm tâm hồn biết bao người lính trẻ hào hoa, lãng tử nơi Hà thành. Cùng với đó là cảnh sông nước Tây Bắc một chiều sương thật lãng mạn nhưng phảng phất nét buồn, như nỗi khắc khoải lo lắng của nhà thơ trước vận mệnh của dân tộc, trước tình hình chiến sự đang đến hồi cam go quyết liệt.
 Đoàn binh tiếp tục cuộc hành quân chiến đấu, những người lính được tác giả khắc hoạ như những tượng dài hiên ngang bất diệt, chân dung họ hiện lên với vẻ đẹp vừa bi tráng lại rất tài hoa, lãng mạn :
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc 
Quân xanh màu lá dữ oai hùm 
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới 
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm 
Rải rác biên cương mồ viễn xứ 
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh 
Áo bào thay chiếu, anh về đất 
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
 Chất bi tráng lẫm liệt được thể hiện với khí thế ngút trời “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc” đây là một hình ảnh dữ dội và hết sức mạnh mẽ của người lính, dù ở trong rừng sâu đối diện với căn bệnh sốt rét hoành hành, da có xanh nhợt đi vì bệnh tật thì chưa bao giờ họ thôi quyết tâm, kiên cường chiến đấu. Người lính khoác trên mình bộ quân phục màu xanh lá mang theo bao ước mơ, hy vọng vào một tương lai tươi sáng, một đất nước không còn bóng quân thù. “Mắt trừng”, “dữ oai hùm” thể hiện khí thế ngang tàn, mạnh mẽ khiến cho kẻ thù phải khiếp sợ. Thế nhưng đau xót thay, người lính Tây Tiến cũng có khi bỏ mạng nơi chiến trường “rải rác biên cương mồ viễn xứ”, những nấm mồ vô danh nơi biên giới họ nằm xuống khi tuổi đời còn quá trẻ, bỏ lại cả tương lai, bỏ lại cả mẹ già đang trông ngóng nơi quê hương yêu dấu. Người lính thật đáng trân trọng, họ hy sinh cho Tổ quốc mà chẳng một phút nao núng sợ hãi “chẳng tiếc đời xanh”. Sự ra đi của họ khiến cho trời đất phải tiếc thương đưa tiễn, dòng sông Mã lại xuất hiện cuối bài như tấm lòng trân trọng của nhà thơ muốn gửi gắm tiễn đưa người lính ở những phút giây cuối đời, những người lính vô danh ấy đã vĩnh viễn nằm lại nơi chiến trường khốc liệt.
Chân dung người lính còn được tác giả miêu tả qua vẻ hào hoa, lãng tử. Họ đều là những chàng trai thành phố vì nghiệp lớn mà rời bỏ nơi nơi phồn hoa đô thị. Những chàng ấy đang còn tuổi trẻ rạo rực với những mộng tưởng, khát khao yêu đương “gửi mộng qua biên giới”, họ mơ về những cô gái Hà Nội xinh đẹp, dịu dàng như nàng Kiều. Tất cả tạo nên một hình ảnh người lính trẻ trung, yêu đời với những khát khao hạnh phúc mãnh liệt của tuổi trẻ.
 Đoạn thơ cuối vang lên mạnh mẽ, quyết liệt như lời khẳng định quyết tâm của đoàn binh, đó cũng là lời thề chung thành với tổ quốc sẵn sàng hy sinh vì độc lập dân tộc :
“Tây Tiến người đi không hẹn ước 
Đường lên thăm thẳm một chia phôi 
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy 
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”
 Người lính Tây Tiến kiên cường, tự tin thể hiện một tinh thần chiến đấu đầy nhiệt huyết“người đi không hẹn ước”, họ ra đi chẳng hẹn ngày trở lại, đi với khí thế sẵn sàng hy sinh để bảo vệ cho tổ quốc, cho độc lập dân tộc. Dù biết chặng đường có “thăm thẳm” chia phôi thế nhưng người lính đã thề với  đất nước một lời thề sắc son “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”. Tâm hồn người lính dường như đã vượt qua những mơ ước cá nhân tầm thường, giờ đây họ mang trên vai mình trọng trách sứ mệnh vô cùng to lớn: Sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng hy sinh cho độc lập dân tộc.
 Tây Tiến là bài thơ đặc sắc nhất góp phần đưa tên tuổi Quang Dũng lên một tầm cao mới của nghệ thuật. Với ngòi bút tài hoa, lãng mạn của mình Quang Dũng đã xây dựng thành công hình tượng người lính vừa bi tráng vừa tài hoa, hai chất thơ ấy không thể tách rời mà hoà quyện vào nhau tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm. Hình tượng thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ được xây dựng làm nền góp phần tô đậm vẻ đẹp của người lính Tây Tiến lạc quan, yêu đời.
 
1
0
vân thanh
06/08/2020 08:41:19
+3đ tặng
Thế giới được tạo lập không phải một lần nhưng mỗi lần người nghệ sĩ xuất hiện là một lần thế giới được tạo lập. Cỏ cây hoa lá vẫn ở đó, vẫn là cuộc sống thường ngày xung quanh ta nhưng sao khi vào những trang thơ, áng văn lại trở nên đẹp đến lạ kỳ! Hình ảnh thiên nhiên vùng Tây Bắc luôn làm chúng ta bất ngờ như thế qua từng câu chữ của “Tây Tiến”.

Quang Dũng thật hay viết và cũng viết thật hay về nỗi nhớ - nỗi nhớ dấy lên từ những nẻo đường tha hương, nẻo đường cách mạng và kháng chiến, hướng về “cố quận”, về “Xứ Đoài mây trắng lắm”, về một “ngọn Ba Vì mờ xa” và cả cái tên thân thương “Tây Tiến”. Bài thơ được viết năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, trong nỗi nhớ nồng nàn với Tây Tiến – đơn vị chiến đấu cũ – cũng là nỗi nhớ núi rừng rải về miền Tây Tổ quốc có vẻ tuyệt kì mà Quang Dũng một thời gắn bó. Không khí lãng mạn rất riêng của những ngày đầu kháng chiến, tư thế dấn thân đầy kiêu hùng, quả cảm của người con Hà Nội hào hoa, đa tình đã được thể hiện đậm nét ở từng câu thơ chứa đầy chất nhạc, chất họa, vừa trang trọng, cổ kính, vừa tươi tắn, trẻ trung.

Mạch thơ chủ yếu là sự đan dệt của kỉ niệm, của những sực nhớ miên man, của những vụt hiện bất ngờ mà ở đó các địa danh có khi chỉ thoáng một dòng tên, có khi chỉ là một điểm nhấn nào đó của kỉ niệm. Còn kỉ niệm bao giờ cũng chan hòa cảnh với người, cùng song hành và đan dệt cả hai mạch: vừa gian khổ vừa thơ mộng:

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

pháp hiện thực đã miêu tả chân thực hình ảnh đoàn quân dãi dầu mệt mỏi, thấp thoáng ẩn hiện trong sương. Và đêm sương ấy trở thành “đêm hơi” bồng bềnh qua cái nhìn lãng mạn của Quang Dũng. Những ngọn đuốc soi đường như những đóa hoa chập chờn, lung linh, huyền hoặc. Sự khắc nghiệt của thiên nhiên được cảm nhận một cách thật thú vị bởi hình ảnh lãng mạn, hào hoa.

Giống như “Tiến quân ca” và mọi khúc quân hành, trong “Tây Tiến”, ta thấy nổi lên hình tượng những con đường. Con đường được kết bằng những địa danh Việt – Lào, đọc lên trầm bổng như ca hát, xa lạ và hiện đại:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Câu thơ “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm” có 7 chữ mà tới 5 chữ là thanh trắc cùng điệp từ “dốc”, các từ láy “khúc khuỷu, thăm thẳm” đã gợi tả hình ảnh con đường hành quân với những đèo dốc quanh co, gập ghềnh, lên cao mãi. Từ láy “heo hút” gợi về cảm giác xa xôi, hẻo lánh. Đặc biệt, nhà thơ không phải người sao chép cuộc sống vào trang thơ mà mỗi chữ đều là sự sôi sục “đãi quặng tìm vàng” (Maiacopxki), để “lượm lặt” trên luống cày đời sống, ấp ủ và gieo lên thành những đóa hoa thơ tuyệt đẹp. Những chữ lấp lánh ấy vừa khiến người ta bất ngờ lại vừa gây hứng thú: “cồn mây”. Không phải áng mây phiêu du hay chòm mây phiêu lãng mà lại là “cồn mây” mờ mịt nơi cửa ải xa: “mặt đất mây đùn cửa ải xa” (Đỗ Phủ). Hình ảnh nhân hóa “súng ngửi trời” mới độc đáo và thú vị làm sao. Đến câu thơ tiếp theo lại được ngắt đột ngột làm đôi, vẽ ra hai chặng đường hành quân. Điệp ngữ “ngàn thước” cùng nghệ thuật đối lập “lên cao- xuống” đã gợi tả độ sâu của vực đầy dữ dội, hiểm trở. Thì ra đọc thơ Quang Dũng không chỉ như ngậm nhạc trong miệng mà còn như được thưởng tranh. “Thi trung hữu họa, thi trung hữu nhạc” là vì thế. Nếu câu thơ trên trắc trở bao nhiêu thì câu thơ dưới lại mềm mại bất nhiêu, câu thơ trên cheo leo bao nhiêu thì dưới lại nhẹ nhàng bấy nhiêu, cảnh trên hiểm trở bao nhiêu thì cảnh hiện thời lại êm đềm bấy nhiêu: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Tâm hồn thảnh thơi được trải ra theo những âm bằng suốt cả câu thơ rồi.

Có những khi, thiên nhiên lại hiện lên thật hùng vĩ và dữ dội:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”.

“Thác gầm thét, cọp trêu người” là những hình ảnh nhân hóa làm tăng thêm sự hoang sơ, dữ dội, bí hiểm của núi rừng Tây Bắc. “Chiều chiều, đêm đêm” là những trạng ngữ chỉ thời gian lặp lại miên viễn, vĩnh hằng. Sức mạnh của thiên nhiên ngự trị nơi đây không phải chỉ có một chiều, một đêm mà là “chiều chiều, đêm đêm”. Nhưng đó cũng là thời gian của những cuộc hành quân Tây Tiến. Vì thế mà hai câu thơ miêu tả cái thâm u, bí ẩn của rừng núi miền Tây Bắc càng khiến chân dung người chiến sĩ thêm cao lớn, mạnh mẽ.

Những câu thơ tiếp theo là hình ảnh thiên nhiên miền sơn cước tuyệt đẹp:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có thấy dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Một từ “chiều sương” thôi mà gợi được cả thời gian và không gian. Cổ thi mỗi khi nhắc đến chiều, đến sương là một nỗi buồn thiên cổ, là nỗi hoài cổ ngàn năm gợi về:

“Dặm liễu sương sa khách bước dồn"

(Bà Huyện Thanh Quan).

Nhưng câu thơ của Quang Dũng lại cho ta một cảm giác rất nhẹ nhàng, bình yên. Một từ “ấy” vô danh nhưng lại hữu ý. Từ “ấy” vô danh vì nó gợi nhắc đến một thời gian nào đó, đôi khi cả chủ thể cũng không thể xác định được: là “Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn” (Xuân Diệu), là “Từ ấy”, “Mười lăm năm ấy” trong hồi ức của Tố Hữu. Nhưng đó cùng là ngày không thể lẫn vào đâu trong muôn vàn buổi chiều vô danh khác trong đời: buổi chiều mang tên kỉ niệm, mang theo nỗi nhớ. Nhà thơ chỉ mất một ít rõ ràng nhưng nhận lại bao la những ý nghĩa. Không phải là “cây lau”, “ngọn lau” hay “phận lau” như TS Chu Văn Sơn dùng trong bài tùy bút: “Phận hoa bên lề” mà là “hồn lau”. Cái “hồn” xưa mà Bà Huyện Thanh Quan đã viết: “hồn thu thảo” làm cho câu thơ không chủ đích tả mà gợi, không chủ ý vẽ mà khơi. Không thấy được hình dáng của ngọn lau nhưng có thể cảm nhận được linh hồn riêng của đại ngàn Tây Bắc. Cảnh theo lời thơ mà tan ra. Một chút rõ ràng mất đi mà thêm rất nhiều thơ mộng. Câu thơ cuối làm hiện ra bóng dáng duyên dáng, uyển chuyển của người con gái Thái giữa cảnh thiên nhiên mộng mơ, yên bình. Hình ảnh “hoa” không chỉ gợi về hình ảnh xứ sở Tây Bắc ngàn hoa mà còn là hình ảnh của cái đẹp. “Hoa đong đưa” là đang làm duyên với gió, với nước khi đã nở trọn đời hoa để buông mình? Hay đó là hình ảnh ẩn dụ của cái đẹp, của người con gái đang tình tứ mà kín đáo làm duyên. Câu thơ có cái duyên của cảnh, duyên dáng của người và phải chăng còn là đôi mắt tình tứ của người ngắm cảnh nữa?

Thiên nhiên còn là nơi bao bọc, yêu thương, nơi để trở về của con người:

“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Câu thơ sử dụng những từ Hán Việt: “áo bào”, “khúc độc hành” làm cho không khí trở nên trang trọng. Những người lính mong manh áo vải khi chiến đấu, đến khi ngã xuống cũng chẳng thể có một tấm chiếu để che mình. Hiện thực là khốc liệt, là đau thương như thế. Nhưng vào trong nhưng câu thơ Quang Dũng, nó tìm được nét nghiêm trang và sự kính trọng cần có. Những chiếc áo vải chiến đấu thành “áo bào” bởi những người lính ấy xứng đáng là những chiến binh, những chiến sĩ kiên cường và đáng kính nhất. Một từ “áo bào” thôi như sự ghi nhận, trân trọng đối với những con người đã dành cả tuổi thanh xuân vì dân tộc, hy sinh cả cuộc đời vì Tổ quốc và những câu thơ thực sự ngang tầm vóc với các chiến sĩ đã bỏ mình vì nghĩa lớn. Sự ra đi của họ lại được cất lên thành khúc “độc hành” của sông Mã đầy uy nghiêm và trang trọng. Tầm vóc con người đã sánh ngang tầm vũ trụ.

Phần “vĩ thanh” của “hành” “Tây Tiến” gồm bốn câu muốn tiếp tục cuộc hành trình của kí ức vượt lên theo dấu chân đoàn quân lừng tiếng:

“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”

Hai câu trên nhắc lại lời hẹn ước của đoàn quân Tây Tiến thuở lên đường: “Chí lớn chưa về bàn tay không”. Hai câu sau vừa là lời tự nhắc nhở vừa là sự duyệt lại của kí ức để đi đến khẳng định: không thể quên những chặng đường đã qua, người dù có đi nơi đâu vẫn gửi hồn về Sầm Nứa. Bởi vì chặng đường đã qua là kỉ niệm, là đồng đội, là sự hiến dâng, là cuộc đời riêng có dịp phát sáng trong cuộc đời chung của dân tộc, cách mạng.

 
1
0
vân thanh
06/08/2020 08:42:53
+2đ tặng
"Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”

(Chế Lan Viên)

Trong cuộc đời mỗi người đã từng gắn bó với nhiều mảnh đất. Mỗi mảnh đất ta qua đều trở thành những kỉ niệm những dấu ấn khó quên. Nhà thơ Quang Dũng cũng đã từng trải qua cảm xúc ấy. Thiên nhiên miền Tây Bắc đã để lại trong nhà thơ những cảm xúc riêng để rồi bức tranh ấy đã được tạc lại đầy hào hùng và thơ mộng trong bài thơ “Tây Tiến”.

“Tây Tiến” được nhà thơ sáng tác cuối năm 1948 tại làng Phù Lưu Chanh khi Quang Dũng rời Tây Tiến đi làm nhiệm vụ khác. Cả bài thơ là một nỗi nhớ dài của những kỉ niệm "Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”. Trong nỗi nhớ "chơi vơi” ấy người đọc được khám phá và chiêm ngưỡng vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên Tây Bắc.

Nếu ai đến với Tây Bắc sẽ không thể nào quên vẻ hùng vĩ và dữ dội của núi rừng nơi đây. Vẻ đẹp ấy đã được nhà thơ Quang Dũng dựng lại trong những hình ảnh thơ đầy độc đáo. Trước hết là thế hun hút của thế đèo cao dốc ngược:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”

Với cách sử dụng điệp từ “dốc” cùng nhịp 4/3 và các láy từ "khúc khuỷu, thăm thẳm”, Quang Dũng như đang đưa từng nét vẽ rắn rỏi và chắc khỏe và hình ảnh của những con dốc tiếp nối nhau đầy gập ghềnh hiểm trở và ẩn chứa nhiều bất trắc. Cùng với dốc là những "Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”. Câu thơ được tạo thành từ hai vế tiểu đối, hình tượng thơ cân xứng hài hòa, cảnh tượng núi rừng được đặc tả: một bên thì lên cao chót vót, một bên xuống sâu thăm thẳm. Không gian thơ được mở ra ở nhiều chiều: chiều cao đến chiều sâu hút của những dốc núi,chiều sâu của vực thẳm, bề rộng của những thung lũng. Ba dòng thơ giàu tính tạo hình nhiều thanh trắc đã gợi mở bao hùng vĩ dữ dội của thiên nhiên nơi đây. Hiểm nguy của núi rừng còn được đẩy cao qua hình ảnh:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

Núi rừng tây Bắc hiện lên với bao âm u, hoang dã với thời gian buổi chiều, về đêm càng nhấn mạnh vẻ hoang sơ của chốn "sơn lâm bóng cả cây già”. Những từ ngữ và hình ảnh nhân hóa, từ láy được nhà thơ sử dụng để tô đậm ấn tượng về về một vùng núi hoang vu dữ dội. Cảm tưởng như người đọc có thể nghe được từng bước chân, từng tiếng gầm gừ của chúa sơn lâm, mối đe dọa với những người chiến sĩ. Không chỉ vậy cái dữ dội, hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc còn được cụ thể qua hình ảnh của con sông Mã:

"Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Nội lực của câu thơ dồn vào động từ “gầm”. chỉ một chữ ấy thôi cũng đủ thấy cái bi tráng hùng vĩ của con sông đang gầm gào dữ dội, ẩn chứa một sức mạnh to lớn.

Thiên nhiên Tây Bắc đã lầm nền cảnh làm nổi bật vẻ hào hùng bi tráng của những người lính trên đường hành quân phải trải qua biết bao hiểm nguy thử thách đến từ thiên nhiên.

Bức tranh thiên nhiên Tây Bắc không chỉ mang vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội mà còn thơ mộng trữ tình với những đường nét mềm mại:

"Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Không phải hoa nở mà là “hoa về”, không phải đêm khuya mà là “đêm hơi”. Bằng cách sử dụng những thanh bằng, câu thơ không tả mà chỉ thiên về gợi qua những đường nét ấn tượng đã ghi lại những nét riêng của cảnh trí nơi này vừa mộng mơ ảo huyền vừa thực vừa hư, như sương như khói. Bao phủ lên thiên nhiên Tây Bắc không chỉ có cái huyền ảo của đêm mà còn có cái êm dịu tươi mát của mưa rừng Tây Bắc:

“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Đối lập với những câu thơ miêu tả sự hùng vĩ dữ dội, ở đây vẻ đẹp của thiên nhiên đã được nâng đỡ bằng đôi cánh lãng mạn. Câu thơ được dệt bằng đa phần thanh bằng gợi mở những hình ảnh nếp nhà ẩn hiện trong màn mưa nơi thung lũng Pha Luông. Không gian được đẩy xa,cái nhìn trở nên mờ ảo sương khói. Có mưa nhưng không lạnh lẽo, hoang vắng mà toát lên cái bình yên, thơ mộng. Làm nên vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình cho bức tranh thiên nhiên Tây Bắc còn phải kể đến một chiều sương trên sông nước Châu Mộc:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Núi cao không còn trước mắt mà chỉ là một chiều sương với hồn lau, bến lách, dáng người trên con thuyền độc mộc, dáng hoa đong đưa. Ba chữ “chiều sương ấy” với đại từ phiếm chỉ, không xác định, gói trọn cả không gian thời gian. Âm điệu câu thơ như trùng xuống chậm lại được kéo dãn ra. Cảnh thơ trở nên hữu tình với những ý thơ "hồn lau, hoa đong đưa”. “Hoa” ở đây có thể là hình ảnh thực của xứ Tây Bắc ngàn hoa cũng có thể là hình ảnh ẩn dụ cho người con gái đang soi mình dưới dòng nước lũ. Hồn lau và hồn hoa hài hòa với tâm hồn người lính làm nên hồn thơ rất riêng. Một chất thơ chất nhạc bàng bạc trong hình ảnh thơ. Những câu thơ trở nên thật đẹp vì nó được vẽ nên bởi tâm hồn nhạy cảm tinh tế của những chàng trai Hà Nội trước mảnh đất xứ lạ. Qua đó vẻ đẹp hào hoa lãng mạn của người lính Tây Tiến được gián tiếp thể hiện một cách đầy thi vị.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Đấu trường tri thức | Lazi Quiz Challenge +500k
Gửi câu hỏi
×